cỏ

cỏ

Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

Ukraina, Tem phổ thông Lá

  1.  Tem mệnh giá 5K: Sorbus aucuparia: Là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa hồng, được miêu tả khoa học lần đầu tiên năm 1753. Cây có thể đạt chiều cao tới 15m, ưa sống ở viền các rừng Sam. Một cành có từ 15 đến 17 lá mọc đối xứng kéo dài về cuống. Lá lông chim có răng cưa, mặt trên và mặt dưới đều có lông. Hoa năm cánh màu trắng, có mùi hơi hắc. Cây ra quả vào mùa Thu. Qủa mọng màu đỏ cam, có vị chua và đắng; là một loài thức ăn ưa thích của các loài chim, đặc biệt là chim Sáo. Cây thường mọc hoang, được trồng ven đường hoặc trong công viên.                                                                                           

  2. Tem mệnh giá 30K: Fraxinus excelsior: Là loài cây lớn phát triển cao đến 20-35m (có thể đạt tới 46m), thân có thể đạt từ 2-3,5m đường kính; vỏ cây mịn màu xám nhạt khi cây còn non, khi già thì dày hơn và nứt dọc theo thân. Cành nhỏ dài từ 20-35cm với 7-13 lá nhỏ mọc đối nhau; các lá dài từ 3-12cm rộng 0,8-3cm có răng cưa. Cây ra lá vào mùa Xuân, các chồi màu đen thẫm. Hoa đơn tính. Qủa dài 2,5-4,5cm; rộng 5-8mm.                                                                                                                                                                      
                                                           

  3. Tem mệnh giá 2UAH: Quercus robur: Là một loài sồi bản địa sống phần lớn ở Âu châu và một số khu vực Bắc Mỹ. Là cây lớn có chu vi thân đạt từ 4 tới 12m; lá có thùy và gần như không cuống dài 7-14cm. Cây ra hoa vào giữa Xuân, trái sồi chín vào mùa Thu. Cây sống lâu năm, cung cấp gỗ.                                                                             
  4. Tem mệnh giá 40K: Cây Óc chó (Juglans regia): Là một loài thực vật có hoa thuộc họ Juglandaceae, được miêu tả khoa học lần đầu năm 1753. Cây có nguồn gốc từ vùng Balkan phía Đông dãy Himalaya và Tây nam Trung quốc. Cây Óc chó là cây đại mộc, chiều cao đạt được từ 25-35m, là loài vây ưa nắng. Vỏ cây trơn màu nâu ô-liu khi còn trẻ, khi già thì trở nên thô bởi các vết nứt dọc theo thân.  Cành mọc xen kẽ dài 25-40cm, có từ 5-9 lá hình lông chim dài. Hoa mọc theo chùy rủ xuống dài 5-10cm. Qủa và lá rụng vào mùa thu. Qủa có tác dụng dinh dưỡng.



Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

Séc, Hoa xạ cúc lam

Xạ cúc lam, hay được gọi với tên Le bleuet ở Pháp, Bỉ, Thụy sỹ; Centaurée Bleuet ở Canada hay Chrpa ở Séc, là một loài cây thân thảo thuộc học Cúc (Họ Cúc tây, họ Hướng dương), thường mọc dại trên các cánh đồng lúa mỳ.
Cây thân thảo có thể cao đến 90cm, màu xanh, lá màu xanh xám có lông xẻ thành  hình mũi mác hoặc hình lông chim. Hoa  có biên màu xanh, đôi khi màu tím hoặc trắng; màu tím ở giữa. Hoa nở từ tháng Năm cho tới tháng Bảy.
Cây mọc dại đang dần trở nên ít thấy do việc sử dụng thuốc diệt cỏ hay sử lí bằng hóa chất trên các cánh đồng. Thích mọc ở nơi nhiều nắng, trên đất khô, màu mỡ và có độ phèn nhẹ.
Cây có nguồn gốc từ phía Nam Âu châu và Tây nam Á châu, sau đó lan rộng ra toàn Âu châu , Tây và trung Á.


Cây được sử dụng trong y học để chế thuốc từ lâu. Trong y học dân gian, nó được dùng để giảm sưng đau, có tính chất lợi tiểu và lọc máu. Ngày nay, nó còn được dùng để chữa các bệnh viêm và mưng mủ ở mắt. Ngoài ra còn được dùng làm thuốc nhuộm và thảo mộc trong việc pha trà.
Ở Séc, Xạ cúc lam được đưa vào Sách đỏ thực vật bị đe dọa , mặc dù nó không phải là cây có nguồn gốc từ nước này.

Tem thuộc sê-ri Tem hoa, phát hành ngày 22/10/2003






Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2014

Séc, Pulsatille

Chi Pulsatille (Pulsatilla) là một chi gồm 33 loài thân thảo sống lâu năm trên các đồng cỏ Bắc mỹ, Âu châu và Á châu. Nhiều loài thuộc chi này được chuộng trồng làm cảnh bởi hình dạng lá nhỏ bản, những bông hoa hinh chuông có màu sắc rực rỡ.


Hoa nở vào đầu mùa Xuân, nên vài nơi còn gọi bằng cái tên hoa Phục-sinh.
Pulsatille là loại cây có độc tính cao, được sử dụng chế thuốc làm chậm nhịp tim ở người, sử dụng quá liều có thể gây tiêu chảy, nôn, co giật, hạ huyết áp và hôn mê. Từ lâu người Mỹ bản địa đã biết sử dụng nó như một loại dược thảo. Ở Ấn độ, Pulsatille được dùng trong quá trình sinh nở.
Chiết suất từ Pulsatille được sử dụng để điều trị các vấn đề về sinh sản như hội chứng tiền mãn kinh, viêm mao tinh hoàn...Một phần được dùng để điều chế thuốc an thần và điều trị ho.


Một số loài Pulsatille đặc trưng: Pulsatilla Patens của vùng Manitoba, Canada; Pulsatilla patens hirsutissima của tiểu bang Nam Dakota, Hoa kỳ; Pulsatilla vulgaris của các quận Hertfordshire và Cambridgeshire, Anh.




Tem phổ thông 4Kc do Bưu chính Séc phát hành ngày 29 tháng Chín 2010
Số tem trên tờ: 100


Pulsatilla grandis
MS "2010 Nature Protection - The lower Morava - A UNESCO Biosphere Reserve"


Pulsatilla pratensis
MS "2013 Nature Protectio - Karlštejn Region"




Thứ Tư, 12 tháng 3, 2014

Pháp, Tem hoa lan 2005

Ngày 25 tháng Tư năm 2005, nối tiếp sê-ri tem về thiên nhiên hàng năm, Bưu chính Pháp phát hành 4 mẫu tem giới thiệu một số loài lan quý cần bảo vệ. 
Tem in với kích thước 26x36.85mm được thiết kế bởi Gilles Bosquet, được phát hành đặc biệt ở Dijon dưới dạng bloc 4 tem nhân kỷ niệm Hội nghị quốc tế lần thứ 18 về các loài lan được tổ chức ở thành phố này diễn ra từ 11-20 tháng Ba năm 2005.
  1. Lan Hài vệ nữ (Sabot de Venus) : là một loài cây thân thảo thuộc thuộc gia đình Orchidaceae (họ Cypripedioideae) thường mọc trên đất có tính kiềm. Nó còn được biết đến với tên gọi Hài trinh nữ hay Chiếc giày của Đức mẹ. Cây phát triển các nhánh nhỏ từ tháng Hai tới tháng Sáu mọc chung gốc, thân cao từ 15 đến 60cm, có lông xung quanh; mọc 3-5 lá hình bầu dục rộng, có gân lá chạy song song nhau. Các lá màu xanh, mặt trên màu sáng hơn, ôm lấy thân, có lông phủ ở mặt dưới của lá. 
          Thông thường, mỗi thân chỉ cho từ 1 đến 2 hoa, rất hiếm khi cho 3 hoa; mỗi bông có 3 đài hoa và 2             cánh hoa. Đài hoa dài 5cm hình mũi mác, thay đổi từ màu nâu đỏ cho tới nâu sô-cô-la. Hai cánh hoa             ở hai bên khá hẹp và thường hơi xoăn.



   2.   Lan Paphinia cristata (Orchidee  d'Aphrodite): Lan có nguồn gốc từ lưu vực sông Amazone, phân bố            từ Trinidad tới miền bắc Bolivia. Cây phát triển trong rừng nhiệt đới ẩm, sống bám trên thân cây, có              thể phát triển ở độ cao trên 800m. 





3.   Lan cánh bướm (Orchidee Papillon): Danh pháp khoa học Psychopsis papilio, được H.G.Jones miêu tả         khoa học đầu tiên vào năm 1975. Lan có nguồn gốc từ Tây Ấn, Costa rica và Peru. Hoa như một cánh         bướm lớn với màu sắc rực rỡ, râu hoa dài, mở ra những cánh hoa lốm đốm màu vàng và nâu.







4.  Orchidee Mabel Sanders (Lan Hài) (không tìm thấy thông tin)








Thứ Ba, 11 tháng 3, 2014

Mỹ, Hoa trong vườn




  1. Hoa Tiên ông (Hyacinth): là một chi nhỏ mọc cây từ củ thuộc gia đình Asparagaceace, họ Scilloideae. Cây có nguồn gốc từ miền Đông Địa trung hải (từ phía Nam Thổ nhĩ kỳ đến miền Bắc Israel), phía Đông-Bắc Iran và Turkmenistan.                                                                                                  
  2. Hoa thủy tiên (Daffodil): Cây có nguồn gốc từ Địa trung hải, nhưng có một số loài Thủy tiên được tìm thấy ở Trung quốc và Trung Á. Cây mọc từ củ, thường ra hoa vào mùa Xuân. Hoa có bao hoa hình loa kèn trompet ở trung tâm được bao quanh một vòng bởi các cánh hoa. Các loài hoa Thủy tiên truyền thống thường có màu vàng kim với bao hoa có màu tương phản. Hoa Thủy tiên có chứa chất độc, có thể gây tử vong nếu ăn phải. Hoa Thủy tiên là quốc hoa của xứ Wales.                                                  
  3. Hoa Tulip (Tulip): hay còn gọi là Uất kim hương, cây có nguồn gốc từ khu vực Trung đông, được trồng phổ biến ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Hà Lan. Cây phát triển từ củ, mỗi củ ra một hoa, thường nở vào mùa Xuân.                                                                                                                                        
  4. Hoa diễn vỹ (Iris) hay họ Lay ơn, là một họ thực vật nằm trong bộ Măng tây (Asparagales). Cây thường xanh với thân hành hay thân củ, mọc thẳng với các lá như lá cỏ, có nếp gấp ở trung tâm và nhọn ở đầu lá. Hoa có nhiều màu sắc, được đặt theo tên của vị thần Iris trong thần thoại Hy Lạp, người được miêu tả là có đôi cánh sặc sỡ như cầu vồng. Rễ cây có hương thơm, được sử dụng trong việc chế tạo hương liệu từ thế kỷ XV.                                                                                                                      
  5. Hoa Tử đinh hương (Lilac) : cây có nguồn gốc ở Âu châu và Á châu. Cây mọc thành từ bụi lớn cho đến cây thân gỗ nhỏ (cao từ 2 tới 10m), lá mọc đối, thỉnh thoảng mọc thành vòng xoắn gồm 3 lá. Hoa nở về mùa Xuân , mỗi hoa có đường kính 1cm, màu từ trắng, hồng nhạt cho tới tím. Hoa mọc thành các chùy lớn, ở một số loài hoa có hương thơm khá mạnh. Ở vùng ôn đới, sự ra hoa bắt đầu sau khoảng 80-110 ngày kể từ ngày có nhiệt độ trung bình là 10oC.                                                                                
Tổng hợp từ Wikipedia

Thứ Sáu, 7 tháng 3, 2014

Séc, Kỷ niệm 150 năm đội lính cứu hỏa Séc,

Cuộc đấu tranh của con người chống lại hỏa hoạn là một câu truyện song song với lịch sử phát triển nhân loại. Người ta kể rằng, vào khoảng thế kỷ thứ 12 trước công nguyên, học giả Ktesibius vùng Alexandria đã chế tạo ra bơm chữa cháy. Các công cụ, thiết bị chữa cháy cơ bản đã được sử dụng ở Ai cập, Rome và các vùng lãnh thổ La mã từ rất sớm, và không ngừng cải tiến cho tới thế kỷ thứ 18.
Cháy ở các thành phố lớn thời trung cổ, khi mà các thiết bị phòng và chữa cháy còn thô sơ, cũng là một vấn nạn cho các nhà cầm quyền. Các hướng dẫn về hỏa hoạn được thông báo tới mọi người dân, cùng với đó là sự giúp đỡ của các hiệp hội được trang bị kiến thức và phương tiện cứu hỏa.
Ở Áo, sau cuộc cách mạng năm 1848 và đặc biệt với sự sụp đổ hoàn toàn của Bach đã tạo điều kiện cho các hội nhóm tự thành lập, tự quản lý ở nhiều nơi. Đặc biệt ở các thành phố nhỏ, các nhóm cứu hỏa không được chu cấp kinh phí, thường được hoạt động dưới sự tình nguyện của người dân.
Đội cứu hỏa đầu tiên ở Séc thành lập vào năm 1864 ở Velvary.



Mã số danh mục0801
Ngày phát hành5. 3. 2014
Gía mặt13 CZK
Số tem /tờ50 stamps
Khuôn khổ tem40 x 23 mm
Thiết kếAdolf Born

-

Thứ Hai, 3 tháng 3, 2014

Malaysia, Tem Hoa hồng II

Ngày Valentine (Valentine's day, Saint Valentine's day, Fête de Saint Valentin, Ngày lễ tình nhân) được đặt tên theo tên Thánh Valentine, một trong những vị thánh tử vì đạo Kito giáo đầu tiên, và cũng là ngày mà cả thế giới tôn vinh đôi lứa, tình cảm giữa các đôi tình nhân, bạn bè. Họ bày tỏ tình yêu bằng những cánh thiệp, những viên kẹo sô-cô-la, (một món quà nho nhỏ) và hoa hồng.
Nhân ngày Lễ tình nhân năm nay, Bưu chính Malaysia đã phát hành bộ tem Hoa hồng seri II vào ngày 14/2/2014.

  1. Tem 60sen: Hybrid tea rose. Là loại hồng lai giữa 2 giống hồng: Hybridising hybrid perpetuals và Tea rose. Cây cao, thân thẳng, tán lá thưa. Hoa phát triển đơn lẻ trên các cuống dài. Cây thường được cắt tỉa cành lá vào mùa xuân để kích thích phát triển. Ưa nắng, trồng ở nơi đất đai màu mỡ.                                                                              
  2. Tem 70sen: Grandiflora rose. Là loại hồng lai tạo bởi các đặc tính nổi trội giữa hai giống hồng: Hybrid tea và Floribundas. Cây ra những bông hoa có dáng vẻ thanh lịch như Hybrid tea mọc thành cụm như Floribundas. Cây mọc cao, có thể lên tới hơn 2m, cứng cáp, có sức chịu đựng tốt, phù hợp trồng làm hàng rào quanh sân nhà.                                                                                                                                                                         
  3. Tem 1.20RM : English rose. Hay còn gọi là Mary rose theo tên gọi của con tàu Mary rose.Được phân loại bởi David Austin, hoa màu hồng phấn, cánh kép, kích thước trung bình, khả năng chịu đựng cao, cây ra hoa sớm. Mary rose là loài hồng được trồng phổ biến nhất ở Anh. Bụi cây có kích thước trung bình, lá đẹp, nở hoa đều đặn trong suốt mùa hè mang hương thơm dịu.