1. “Lươn nạp mình cho rắn”: Xuất phát từ hiện tượng thực cứ
đến ngày “mồng năm tháng năm” hàng năm, lươn dù lớn dù bé cứ gặp rắn là mềm
nhũn ra không bò được nên bị rắn bắt. Dân gian dùng hiện tượng này để ám chỉ những
kẻ không hiểu sao lại tự dưng đem nạp mình cho kẻ khác vô điều kiện.
2. “Theo đóm ăn tàn”: Nghĩa đen của nó xuất phát từ thói
quen bản năng của loại rắn mái gầm: loài rắn ngủ ngày, ăn đêm, đặc biệt thích
nhấm nháp chất tro tàn, nhất là tro tranh. Các nhà khoa học giải thích là rắn
thích theo đốm lửa, tầm nhiệt để săn mồi (chuột, nhái, cóc …). Nghĩa bóng của
thành ngữ này nói về kẻ dựa hơi, cơ hội để hưởng lợi. Trong xã hội có lắm kẻ cơ
hội ăn theo, thực ra thì bọn họ chả có tài cán gì, chỉ là một lũ “vẽ rồng vẽ rắn”
nhưng nhờ có được chút quyền lực mà tha hồ thu vén quyền lợi cho cá nhân hoặc
cho lợi ích nhóm.
3. “Mái rầm tại chỗ, rắn hổ về nhà”: Ngụ ý rằng ai mà bị hai
loài rắn độc này cắn không sớm thì muộn cũng tiêu đời.
4. “Vào nhà rắn rồng, ra đồng hổ ngựa”: Rắn rồng thường chui
vào mái nhà để trú nắng và bắt chuột. Còn ở ngoài đồng thì rắn hổ ngựa phóng
nhanh để đuổi theo con mồi. Nghĩa bóng ám chỉ mỗi loài trên thé gian này có ưu
thế và tập tính khác nhau.
5. “Rắn đổ nọc cho lươn”: Lươn sống chui rúc trong hang, bãi
bùn, ao hồ, lươn hiền lành không cắn người và nhẫn nhịn. Còn rắn vừa có nọc độc,
vừa cắn người là săn bắt các con vật khác. Có lẽ do ngoại hình hai con vật này
na ná như nhau nên dân gian mượn hình tượng này để có ý nhắc nhở người hiền coi
chừng có khi bị kẻ xấu đổ vạ hoặc lên án kẻ ác đã gây tội lại còn đổ cho người
khác. Nhân dân ta có câu tương tự: “Gắp lửa bỏ tay người” hoặc “Ngậm máu phun
người” để ám chỉ loại người này.
6. “Miệng hùm nọc rắn”: Hùm là loại thú dữ, rắn là loài có nọc
độc giết người. Thành ngữ này mượn hình ảnh loài vật dữ để ám chỉ những kẻ thâm
độc, hiểm sâu.
7. “Đầu rồng đuôi rắn”: Xuất phát từ trò chơi dân gian
"rồng rồng, rắn rắn" mà từ đó hình thành thêm nghĩa bóng chỉ hình thức
dài dòng, lộn xộn, không nhất quán…
8. “Thẳng như rắn bò”: Chỉ những người thẳng thắn, không bị
khuất phục - “Cây ngay không sợ chết đứng”. Nhưng trong đấu tranh xã hội, lắm
người vì nói thẳng nói thật - “Sự thật mất lòng” mà bị trù dập. Trong một xã hội
toàn những kẻ “Miệng hùm nọc rắn” thâm độc, hiểm sâu thì tiếng nói, số phận của
những người thẳng thắn chẳng khác gì tiếng “Oai oái như nhái phải rắn”.
9. “Thao láo như mắt rắn ráo”: Dân gian lấy hình ảnh mắt rắn
ráo mở to, láo liên để tìm mồi để ám chỉ những kẻ có đôi mắt thao láo một cách
khả nghi cần đề phòng.
10. “Oai oái như nhái phải rắn”: Chỉ tình trạng kêu la luôn
mồm, một cách thảm thiết giống như con nhái bị rắn bắt.
11. “Rắn đến nhà, không đánh thành quái”: Rắn là loài vật dữ,
khi vào nhà thì phải đánh để khỏi gây hại - ý nói kẻ ác độc, mưu mô, thâm hiểm
thì ta phải diệt trừ ngay để nó không gây hại cho mình.
12. “Rắn già rắn lột, người già cột vào săng”: Có câu chuyện
cổ dân gian lý giải rằng ngày xưa người và rắn
cùng chung sống, “dân số” ngày một đông, hết đất sống. Để cân bằng trở lại
một ngày kia, Ngọc Đế sai Thiên Lôi xuống truyền lệnh rằng: “Người già người lột,
rắn già cột vào săng”, không hiểu sao, rắn biết được và tìm cách “mua chuộc”
Thiên Lôi, khi đến hạ giới Thiên Lôi lại phán ngược lại. Và thế là, người già,
người chết, rắn già thì rắn lột da. Ngẫm ra câu nói dân gian trên vừa phản ánh
một hiện tượng tự nhiên vừa mang tính triết lý sâu sắc. Rắn già thì lột xác để
tiếp tục phát triển, người già thì ngày càng tàn lụi rồi chết.
13. “Rắn rết bò vào, cóc nhái bò ra”: Cóc nhái sống trong hang luôn là đối tượng
luôn bị rắn rình mò để ăn thịt nên chúng không thể cộng sinh với nhau được.
Thành ngữ này nói lên một quy luật của cuộc sống: trong xã hội ai cũng tránh
người hung ác, hiểm độc như rắn rết hoặc khi kẻ dữ đến thì kẻ yếu đuối hơn phải
dời đi nơi khác.
14. “Nọc người bằng mười nọc rắn”: Nọc rắn độc là điều hiển
nhiên nhưng “nọc người” thì thật đáng sợ hơn nhiều lần. Nọc người là những mưu
mô, toan tính, thủ đoạn… mà con người dùng để hại nhau một cách độc ác, nham hiểm
khó lường. Dân gian cũng nói về điều này bằng câu: “Dò sông dò biển dễ dò/ Có
ai lấy thước mà đo lòng người”
15. “Cõng rắn cắn gà nhà”: Ý nghĩa chung hàm chỉ hành động
đem kẻ ác, kẻ nham hiểm đến làm hại người thân của mình, và hiểu rộng ra, đó là
hành động phản bội đồng bào, đưa giặc vào giày xéo Tổ quốc thân yêu của mình.
16. “Nói con rắn trong lỗ bò ra”: Nói năng ngọt ngào, có sức
hấp dẫn, thuyết phục đến mức ai cũng phải nghe theo.
17. “Đánh rắn đánh đằng đầu”: Xuất phát từ kinh nghiệm dân
gian cho rằng khi đánh rắn thì đánh ngay đầu, rắn sẽ bị tê liệt không còn khả
năng lao tới tấn công lại. Nghĩa bóng nhằm nêu bài học cho con người khi tấn
công đối phương thì phải biết ra đòn chí mạng, đánh đúng chỗ, trúng nơi đầu não
của kẻ thù. để khỏi bị báo thù.
18. “Rắn khôn dấu đầu”: Ý nói người khôn ngoan biết bảo vệ,
giữ gìn, che dấu những gì là hiểm yếu nhất của mình không để cho đối phương
phát hiện.
19. “Vẽ rắn thêm chân”: Chỉ những việc làm không cần thiết,
thừa thải phản tác dụng.
20. “Len lét như rắn mùng năm”: Theo dân gian, ngày năm
tháng năm âm lịch là ngày “diệt sâu bọ”. Tục truyền rằng ngày xưa vào mồng năm
tháng năm, người ta thường đi tìm rắn rết sâu bọ để giết vì họ coi chúng là
loài tai ác, gây hại. Chả thế mà trong ngày mùng năm tất cả các con rắn đều nép
mình ở trong hang không dám ngóc đầu lên (len lét) vì sợ bị giết chết hoặc trốn
đi biệt tăm hết cả. Thành ngữ này chỉ thái độ và diện mạo của những người hay sợ
sệt nói chung. Thường đó là thái độ của những người nhu nhược sợ sệt do thiếu bản
lĩnh trong cuộc sống.
21. “Rắn mất đầu”: Rắn mất đầu thì không hoạt động được, ám
chỉ người lãnh đạo tối cao đã mất, thì bộ phận bên dưới không làm được gì.
22. “Hùm tha rắn cắn”: Tha ở đây có nghĩa là tha thứ, loại
ra không sử dụng. Thành ngữ này tương ứng với câu "Quan tha ma bắt":
người mà bị hùm chê trở về nhà thì sớm muộn gì cũng bị rắn cắn chết, hàm ý nói
con người gặp vận hạn thì thoát được chuyện này cũng sẽ gặp nạn khác.
23. “Khẩu Phật tâm xà”: Nhằm ám chỉ kẻ đạo đức giả, miệng
nói thương người nhưng lòng dạ ác hiểm, hãm hại kẻ khác.
24. “Khẩu xà tâm Phật”: Nhằm chỉ kẻ ngoài miệng bốp chát
nóng nảy chửi bới lung tung có vẻ dữ dằn nhưng bản chất bao dung, lòng dạ thẳng
ngay, nhân đức.
25. “Xà cung thạch hổ”: Đây là thành ngữ Hán Việt nhằm chỉ
những kẻ hay nghi ngờ: thấy cánh cung cong nghi là con rắn, thấy hòn đá ngờ là
cọp dữ. Sự thật trước mắt nhưng không tin tưởng, lúc nào cũng hoài nghi quàng
xiên.
26. “Áp rắn vào ngực”: Rắn là loài độc hại mà đem áp vào ngực,
có ngày bị nó cắn mạng vong - đồng nghĩa với câu "nuôi ong tay áo, nuôi khỉ
dòm nhà" - ám chỉ sự lầm lẫn trước việc thiếu cảnh giác, đem họa vào thân.
27. “Rắn không chân rắn bò khắp rú/ Gà không vú răng nuôi đặng
chín mười con” (Ca dao): Ca ngợi những kẻ bản lĩnh, vượt khó khăn, thách thức
trong cuộc sống.
28. “Con công ăn lẫn với gà/ Rồng kia rắn nọ, xem đà sao
nên” (Ca dao): Phản ảnh quan niệm lạc hậu về môn đăng hộ đối không còn phù hợp
nữa.
29. “Con chi rọt rẹt sau hè/ Hay là rắn mối tới ve chuột
chù? ” (Ca dao): Phản ảnh (có khi là chế giễu) những cảnh ngộ, tình huống oái
oăm, thiếu sự đăng đối nhưng cũng đáng được cảm thông.
30. “Sư hổ mang”: Thành ngữ chỉ hạng người khoác áo là nhà
sư nhưng thực chất là hạng người ham sắc dục.
(Sưu
tầm)