Chữ Phúc và chữ Thọ là hai biểu tượng rất phổ biến ở vùng viễn Đông.
Chúng ta có thể bắt gặp nó nhiều nhất là thêu, trạm, khảm, vẽ trên đồ gốm sứ, quạt, giày, vật dụng, tường nhà, y phục, tranh vẽ, quan tài,...
Cửa sổ có khuôn được làm bằng gạch nhưng phần mộc của cánh cửa hay song cửa được làm bằng gỗ theo hình những chữ này.
Người ta thường tô vẽ hay cắt các chữ này bằng giấy màu đỏ, màu sắc của may mắn và dán chúng lên tường, vách nhà ở hay chùa chiền. Chúng cũng được gửi tặng tới bằng hữu hay thân quyến. Trong vườn, các cây trồng hay chậu hoa được cắt tỉa hình chữ Phúc hay chữ Thọ. Thậm chí cả các bể, hồ nước tạo cảnh cũng vậy. Chữ Phúc và chữ Thọ được sử dụng vô vàn trong đời sống thường nhật.
Ngoài ra, đi kèm với hai chữ trên ta thường thấy có thêm chữ Lộc (emploi lucratif).
Vào dịp Tết Việt nam, trên những bức tranh mà người ta có thói quen mang tặng bạn bè, bố mẹ hay trên những ô cửa, tường nhà, ta thường thấy hình ảnh một ông già râu trắng ôm trong hay ở trên vai một quả đào, một quả hạnh và một chùm nho được viết chữ Phúc và Thọ lên trên.
Chùm nho tượng trưng cho phúc bởi số lượng hạt giống mà một chùm có thể cho. Với người An nam, một gia đình chỉ hạnh phúc khi là một gia đình đông con cháu với sự phồn vinh bền lâu. Bởi vậy, khi tặng ai chùm nho sẽ mang ý nghĩa là Chúc gia đình sinh năm đẻ bảy và các thế hệ sau nối bước thế hệ trước (Puissiez-vous multiplier votre famille et vos descendants comme la grenade multiplie ses graines)(1).
Tính biểu tượng của quả đào được biết thông qua một truyền thuyết: Người An nam nói rằng trên bầu trời có một vườn đào với các quả đào được kết tinh cả ngàn năm, có những quả sáu ngàn năm mới chín. Ai ăn được một trong những trái đó sẽ có thể trường thọ cùng đất trời. Người ta gọi đó là những trái đào tiên,
Gỗ đào cũng trở thành một trong những loại gỗ mà người ta dùng làm các vật dụng có tính tâm linh, nó có thể xua đuôi được ma quỷ; hoa đào là biểu tượng của suối nguồn tươi trẻ và trinh tiết người phụ nữ, và trái của nó là biểu tượng của hạnh phúc.
Chữ Phúc và chữ Thọ được trang trí phổ biến, nhất là trên những cổ vật được viết theo lối triện tròn hoặc vuông hoặc theo hình lọ hoa.
Ngoài hai chữ này, trong hệ thống biểu tượng xứ Bắc kỳ, có nhiều hình ảnh khác cũng thượng trưng cho Phúc trong gia đình. Hình ảnh con gà trống được dán lên cánh cửa để xua đổi ma quỷ. Đó là một niềm tin lâu đời mà tương tự như ta thấy ở Pháp quốc, khi tiếng gà gáy sáng, những bóng đêm tăm tối sẽ bị xua đuổi. Khakespeare cũng từng viết về niềm tin này trong chương một của vở kịch Hamlet. Ở xứ viễn Đông, con gà trống là biểu tượng của mặt trời bởi nó gáy sáng gọi mặt trời lên ở phương Đông. Điều này mở ra ánh sáng, sự sống trên toàn nhân gian. Bởi vậy, người ta thường cúng ba con gà trống vào đầu mùa xuân, là rạng đông của một năm mới. Trẻ em đến thầy học chữ buổi đầu lúc nào cũng biếu thầy một con gà trống với hàm ý để được thầy khai sáng, đẩy lùi sự dốt nát, mở ra chân trời học thức. Niềm tin này cũng giải thích lý do tại sao lại ăn trứng vào mùa xuân, hay lễ Phục sinh lại có trứng ở nhiều dân tộc trên thế giới như người Ba tư, người Ai cập, người Do thái. người Hy lạp, người Nga, người Trung quốc,...
Những bức hình con gà trống được dán trên cửa vào dijp đầu năm có đề theo vài khổ thư chữ Nôm:
(*Mình đề bản gốc tiếng Pháp và bản dịch mot-à-mot, bản gốc tiếng Việt sẽ được bổ sung một khi mình tìm được ở đâu đó). - ND
Le coq a cinq vertus, comme le phénix,
Son front est surmonté d'une petite montagne;
Son chant disperse les mauvais esprits,
Son image à la porte assure une longue et paissible existence.
Dịch nghĩa:
Con gà trống có năm đức, như chim phượng hoàng,
Nó trèo lên một đỉnh cao,
Cất tiếng gáy xua đuổi những u hồn,
Hình của nó dán ở cửa mang đến một cuộc sống trường thọ và an bình.
Ở nhiều vùng xứ Bắc kỳ, quanh khu vực sông đà, người ta cũng dán lên cửa hình một con lợn trên mông được trang trí một Tài kỳ (Đại cực).
(1)Người An nam và người tàu là những dân tộc mắn đẻ nhất thế giới. Đặt biệt ở vùng viễn Đông, trẻ em lúc nhúc và không một nơi nào khác nữa nơi mà các quan hệ họ nội, họ ngoại, cha mẹ con cái lại phức tạp sánh bằng. Việc giết đứa trẻ mới được sinh ra chưa bao giờ được ghi nhận ở Bắc kỳ. Với những gia đình bần hàn, họ bán con mình đi. Tuy nhiên việc làm đó không phải là để giải thoát bản thân họ hòng kiếm vài đồng bạc lẻ, ngược lại cần được xem xét với mục đích duy nhất là giúp cho đứa trẻ thoát khỏi cảnh đói nghèo của gia đình và đảm bảo được sự sống.
Trong điều kiện như vậy và theo cái tư tưởng mà tượng trưng bởi chùm nho, vào thời bình, dân số An nam đã gia tăng một cách đáng kinh ngạc.
Trung hoa có một nửa tỷ người (thống kê cuối thế kỷ 19 -ND) phát triển từ một bộ tộc vốn chỉ có trăm gia đinh. Trong lịch sử như chúng ta đều biết, một lượng lớn người Mãn châu bại trận dưới tay người Hán và bị đồng hán hóa. Một phép tính đơn giản hơn nữa chính là giả dụ mỗi cặp vợ chồng có 2 con, nếu mỗi người con này kết hôn và lại có 2 con, như vậy chúng ta có 4 đứa trẻ ở thế hệ F2, 8 ở thế hệ kế tiếp, 16 ở thế hệ tiếp theo,... Trên cơ sở đó, chúng ta có thể ước tính tới con số 112 từ một cặp thế hệ đầu tiên sau 2 thế kỷ, 1,992 sau ba thế kỷ, 31,912 sau bốn thế kỷ, 511,792 sau năm thế kỷ, 8,188,672 sau sáu, và 32,650,688 sau bảy thế kỷ.
Nguồn: Les symboles, les emblèmes et les accessoires du
cultes chez les annamiate, 1891, trang 07.