Lịch sử thiên nhiên Trung hoa (Peun ts'ao Kangmou), cuốn sách viết trên góc nhìn y học, xếp trong nhóm cùng dưới tên gọi chung là Rồng gồm có 5 chủng loài bò sát lớn; xương cốt của chúng còn nằm rải rác rất nhiều trên lãnh thổ Trung hoa. Tuy nhiên, những xương cốt này lại thuộc về loài cá sấu châu Mỹ vốn đã tuyệt chủng ở châu lục này từ lâu. Khi lui về thời cổ đại để xem xét loài vật này trong tín ngưỡng niềm tin của người Trung hoa và hơn hết là những huyền thoại, truyền thuyết mà trong đó loài rồng là nhân vật trọng yếu của nhiều tộc người cổ đại khác, như là người Indou, người Ai cập, người Ba tư và người Do thái, nó gợi cho chúng ta liên tưởng về một loài thằn lằn lớn tiến hóa theo thời gian kiến tạo địa chất.
Theo thần thoại phật giáo, trong muôn loài thì rồng đứng trên tất cả, thậm chỉ là loài người. Nó được trao cho công lý, lẽ phải. Vua của loài rồng, Long Vương, được gọi là Hộ pháp của Đức phật (protecteurs de la loi de Bouddha).
'Dưới đáy biển có 177 vị Long vương trong đó quyền lực nhất là vị số 19. Người hoa gọi vị Long Vương số 19 là So Kie Lo, phiên âm của từ tiếng Phạn Sagara. Đây chính là người rải mây ra bầu trời.
'Rồng có thể được sinh ra theo bốn cách: từ một quả trứng, từ tử cung, bởi độ ẩm hay do biến hóa từ một cây cổ thụ mà người ta gọi là Tcha Che Ma Li trong tiếng Hoa. Loài rồng có thể tự biến hóa tùy thích, trừ 5 dịp sau: khi sinh, khi chết, khi đang đùa giỡn, khi tức giận và khi buồn ngủ.
'Rồng là đích nhắm của ba dòng khí: ngọn lửa đang cháy và cát nóng làm chúng khó chịu; những cơn bão như muốn lột da chúng, sự phàm ăn của Garouda xuất hiện nởi ở của rồng và ăn thịt những con rồng con.'
Theo biên niên sử Trung quốc, trong hệ thống hành chính được thiết lập ở Trung quốc 3,468 năm về trước, các quan đứng đầu được gọi là những con rồng. Người phụ trách việc dạy văn chương được gọi là
Phi long (dragon volant). Người phụ trách việc biên soạn lịch được gọi là
Long ẩn (dragon qui se cache). Người phụ trách các hạng mục xây dựng gọi là
Rồng bất biến (?)(dragon immuable). Rồng bảo hộ/ Hộ Long (dragon protecteur) hỗ trợ cho các vấn đề liên quan thiên tai (
misère public).
Địa long (dragon terrestre) phụ trách bảo vệ biên cương.
Thủy long (dragon des eaux) thì thiết lập hệ thống đê hiều dẫn và thoát nước mùa lụt để cho ruộng vườn sinh trưởng.
Truyền thuyết kể rằng, Phụ Hi có mình rồng và đầu của một con bò. Ông trở thành nhà hiền triết cũng như người cai trị đầu tiên của người hoa. Ông đã sáng tạo ra chữ viết, nhạc cụ, vòng lục thập hoa giáp (
cycle de 60 ans) mà ngày nay người An nam lẫn người Hoa còn sử dụng để tính thời gian, cái cày/ bừa. Ông cũng dạy cách tạo muối từ nước biển, viết binh thư, và sách y khoa chữa bệnh,...
Người An nam nói rằng rồng không có tai mà chúng nghe bằng cặp sừng. Họ tin rằng loài rùa quoa ngàn năm sinh sống, có thể biến đổi thành rồng.
Ở Âu châu, rồng là hiện thân của xấu xa, của quái vật. Điều đó hoàn toàn trái ngược với sự tôn kính, sự súng bái ở nơi đây. Người ta nói: "Diện kiến long nhan" (
Contempler la face du dragon) để ám chỉ việc gặp vua.
Một số loài cá cũng có thể hóa rồng, hay nói chính xác hơn, rồng thường có dạng nguyên thủy từ loài cá. Để được như vậy, các đám mây phải xà xuống sát mặt nước nơi con cá đang bơi.
..........................................
Si vous reconnaissez en vous quelque valeur
N'ayez nulle impatience, votre tour viendre vite,
Apportant la nobless, et la gloire et les biens.
Le dragon, le posson, ont la même origine,
Mais combien pour chacun la destinée diffère!
Le poisson ne peut vivre hors de son élément,
Mais qu'un légér nuage s'abaisse vers le sol
Et l'on voit le dragon s'élancer dans les airs! (1)
(Chanson annamite) (2)
Dịch nôm:
Nếu bạn biết bạn có tài,
Chớ nóng vội, vận bạn sẽ tới thật nhanh,
Mang theo phú quý, vinh hoa và lộc lá.
Loài rồng, loài cá có chung một gốc
Nhưng số phần cách biệt ra sao cho mỗi loài
Cá chẳng thể sống trên cạn
Nhưng chỉ một đám mây nhẹ xà xuống đất thôi
Rồi xem thấy con rồng uốn lượn trên không trung!
Rồng là biểu tượng của quyền lực và sự quý tộc. Người ta thêu hình rồng lên áo của quan lại phẩm cao cũng như người Pháp thêy hình hoa ly cùng con ong lên áo khoác của vua vậy.
Trong một số ngôi chùa hoàng gia, người ta cũng thể hiện những con rồng với bàn tay con người với những ngón tay quá khổ.
Có hai dạng rồng được sử dụng trang trí mang tính biểu trưng: Mãng và Long.
Mãng là một con rắn lớn sống trên cạn. Long là loài thủy sinh hoặc lưỡng cư. Long bào (tunique à dragons) để nói đến áo vua.
Hoàng đế luôn mặc trang phục được thêu rồng có năm vuốt. Con trai của vua và năm vị hoàng thân đứng đầu được mặc áo phục có thêu Mãng và Long. Đồ án được sắp xếp như sau:
trước ngực thêu một con rồng, một con rồng khác ở phía sau lưng, hai con rồng hai bên vai, mãng phủ đầy vạt dưới cả hai phía trước và sau áo, tuy nhiên những con rồng này chỉ có bốn vuốt.
Ở Trung quốc, đôi khi hoàng đế trao thưởng như một lễ phẩm cao quý cho quan lại hoặc người có công trạng lớn trong nước quyền được mặc áo có thêu hình rồng. Những chiếc áo choàng này có màu vàng.
Trước năm 1293 khi vua Trần Anh Tông lên ngôi, các vua nước Nam đều xăm hình con rồng lên đùi (3) . Vị hoàng tử trẻ tuổi Anh Tông không thích phong tục này. Khi mà vua cha muốn Anh Tông tuân theo phong tục này, ông đã tìm cách trốn tránh. Sau này khi kế nghiệp lên ngôi vua, Anh Tông đã loại bỏ tục này một cách thành công.
Người An nam, thể hiện hình ảnh loài rồng để trang trí trên nhiều vật dụng trang trí khác nhau, đều tuân theo một nguyên tắc là loài rồng là vua của mây trời, là người tạo mưa. Vì vậy, thể hiện hình ảnh loài rồng ở mọi nơi là bắt buộc đề cầu mưa xuống. "Mưa đi theo rồng" , người Hoa thường nói như vậy nên vào mùa khô, họ đi nối nhau trên đường phố theo hình con rồng. Vào thời Khổng tử, vua nước Chu đã sơn vẽ rồng lên tường của tất cả các bức tường nhà, lên bát đĩa, chai lọ và nhờ vậy, Vương Trung nói rằng, mưa không bao giờ vắng mặt ở lãnh thổ nước này. Không chỉ được xem như là nhân tổ không thể thiếu để tạo mưa, rồng còn là biểu tượng của sự tươi tốt và màu mỡ của đất đai. Nó làm dịu bớt cái nóng nực mùa hè miền nhiệt đới và dự báo bệnh dịch.
Vào năm 1886, trong biểu kiến nghị của tướng Varnet, thống sứ Bắc Kỳ, triều đình Huế đã thông qua về Đại Nam Long tinh ( Ordre du Dragon) (4) với trích phần nội dung được dịch Nôm như sau: (5 - Văn bản đầy đủ tiếng Pháp được chép lại ở dưới - ND)
Phần I.
Điều 1. - Đại Nam Long tinh được lập ra để thưởng cho người có thành tích về mặt dân sinh hoặc quân sự.
Điều 2. - Hoàng Đế là bậc tối thượng và chủ nhân của long tinh này.
Điều 3. - Những người được trao thưởng Đại Nam Long tinh được chia thành năm bậc:
Hiệp sỹ;
Sỹ quan;
Chỉ huy;
Đại sỹ quan; (?)
Tổng chỉ huy;(6)
Điều 4. - Đại Nam Long tinh được trang trí thể hiện dưới dạng một ngôi sao 8 cánh bằng kim loại, có các nón nhọn trên cánh; một con rồng bằng kim loại, được khảm men màu lục, có vuốt túm lấy vương miện theo kiểu châu Âu.
Phần chính của long tinh hình ô-van có nền khảm men màu lam và khắc nổi bằng vàng bốn chữ Đồng Khánh Hoàng Đế theo lối chữ triện cùng bốn mặt trời xung quanh đang tỏa sáng.
Đường vành của hình ô-van được khảm men đỏ bọc vàng.
Điều 5. - Kim loại được sử dụng là bạc dành cho hiệp sỹ, là vàng cho sỹ quan, chỉ huy, đại sỹ quan, tổng chỉ huy.
Đường kính 40mm cho hiệp sỹ và sỹ quan; 60mm cho chỉ huy.
Điều 6. - Long tinh dành cho quan văn lẫn quan võ đều giống nhau.
Điều 7. - Ru-băng được gắn vào Long tinh là màu xanh ánh bạc có viền màu cam cho quan văn. Màu trắng ánh bạc có viền màu cam cho quan võ.
Ru-băng bề ngang 38mm, viền bo màu cam rộng 7mm phải trái mỗi bề.
Phần II.
Điều 8. - Hiệp sỹ đeo Long tinh lên ngực trái bởi sợi ruy-băng, không có bông hoa hồng nhỏ.
Sỹ quan đeo tương tự, nhưng có một bông hoa hồng nhỏ.
Chỉ huy đeo trên cổ như dây chuyền bởi một sợi ru-băng tương tự nhưng bề ngang lớn hơn ru-băng của hiệp sỹ và quan chức.
Đại sỹ quan đeo bên ngực phải một huân chương ngôi sao tám cánh bằng bạc được trạm đá quý, đường kính 90mm. Phần trung tâm cũng được trang trí bằng bạc trạm đá quý.
Tổng chỉ huy đeo đai ruy-băng chéo kéo từ vai phải xuống, ruy-băng bản lớn màu lục ánh bạc viền màu cam cho quan văn và màu trắng ánh bạc viền màu cam cho quan võ; ở cuối của ruy-băng được treo một huân chương giống như cái dành cho sỹ quan nhưng với đường kính 70mm. Hơn nữa, tổng chỉ huy còn đeo bên ngực trái một Long tinh giống cái của đại sỹ quan.
Hoàng đế là người duy nhất có quyền được đeo Long tinh dành cho hiệp sỹ đồng thời Long tinh dành cho tổng chỉ huy theo ý thích.
Phần III.
Điều 9. - Đại Nam Long tinh được trao thưởng bởi Hoàng đế.
Các bộ trưởng đề xuất danh sách ứng cử trao thưởng.
Điều 10. - Giấy chứng nhận có con dấu của Hoàng đế cùng với chữ ký xác nhận của Thượng thư bộ lễ sẽ được trao kèm cho người nhận được Đại Nam Long tinh.
Điều 11. - Thượng thư bộ lễ có trách nhiệm phụ trách về các đề xuất cũng như soạn giấy chứng nhận.
Bộ lễ cũng phụ trách kiểm soát Đại Nam Long tinh viện.
Soạn ở Hoàng thành Huế, ngày 9 tháng 2 năm thiên nguyên Đồng Khánh (14 tháng ba 1886).
Đối với người An nam, các từ Hiệp sỹ, Sỹ quan, Chỉ huy,... không có ý nghĩa gì nhiều mà thay vào đó là Đệ nhất hạng, Đệ nhị hạng, Đệ tam hạng,... trong đó Đệ nhất hạng tương ứng với Tổng chỉ Huy; kèm theo đó là phẩm văn hay võ, như sau:
Cho quan văn:
Đệ nhất hạng: Khôi kỳ tinh long (Perfection imcomparable).
Đệ nhị hạng: Chương hiền long tinh (Sagesse éclatante).
Đệ tam hạng: Biểu đức long tinh (Vertu manifeste).
Đệ tứ hạng: Minh nghĩa long tinh (Inlégrité brillante).
Đệ ngũ hạng: Gia thiện long tinh (Bonté digne de récompense).
Cho quan võ:
Đệ nhất hạng: Trác dị long tinh (Mérite suprême).
Đệ nhị hạng: Thù huân long tinh (Patriotisme digne de récompense).
Đệ tam hạng: Tinh năng long tinh (Puissance manifeste).
Đệ tứ hạng: Tưởng trung long tinh (Fidélité d'encouragement).
Đệ ngũ hạng: Khuyến công long tinh (Mérite digne de récompense).
(1) G.Dumoutier, Sách Les chants et les traditions populaires chez les Annamites. NXB Leroux, Paris, 1890.
(2) Lời bài hát tiếng Việt, do không tìm được bản gốc tiếng Việt nên mình để nguyên theo sách và có dịch nghĩa chay.
(3) Trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư có viết khá rõ về nguồn gốc của các hình xăm ở nước Nam như sau: người giao Chỉ, sống ở vùng đồng bằng và các cửa sông, thường xuyên bị tấn côn bởi loài rắn, cá sấu cùng một số loài thủy quái khác; họ than phiền với vua, người vốn mang trong mình dòng máu loài rồng; vua kêu người dân tự xăm lên thân mình hình ảnh con rồng và từ đó dân sinh sống yên ổn dù đánh bắt ở vùng nước ngọt hay nước mặn.
(4) ND - Đại Nam Long tinh (大南龍星), hay Nam Việt Long bội tinh, còn được gọi theo tiếng
Pháp: L'Ordre du Dragon d'Annam hay L'Ordre du Dragon Vert) là một cơ chế phong thường cho triều thần nhà Nguyễn và người Pháp tại Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Đây là một sự chắp ghép thể thức phong thưởng Bắc đẩu bội tinh của Pháp với điển lệ Hoàng triều nhà Nguyễn do chính phủ bải hộ đề ra dưới triều vua Đồng Khánh. Các cá nhân được phong thưởng hợp thành Đại Nam Long tinh viện (chữ
Nho: 大南龍星院) tương tự như Légion d'honneur của Pháp.
Theo điển lệ nhà Nguyễn, các quan lại có công, được triều
đình ban thưởng kim khánh hoặc kim tiền để ghi nhận. Sau khi tước bỏ chủ quyền
của triều đình Đại Nam bằng Hòa ước Giáp Thân (1884), Bộ trưởng Hải quân Pháp
Alexandre Peyron và Đặc sứ Pháp Jules Patenôtre đã thiết kế ra một loại huân
chương dành tặng thưởng cho các viên chức có công với thuộc địa mới. Loại huân
chương này được gọi là "ordre impérial du Dragon d'Annam", phỏng theo
cơ chế của Bắc đẩu bội tinh. Tuy nhiên, mãi sau khi đưa vua Đồng Khánh lên
ngôi, chính quyền bảo hộ Bắc và Trung kỳ mới chính thức đặt ra cơ chế bội tinh
này ngày 14 tháng 3 năm 1886, với lý do để đánh dấu sự hợp tác giữa triều đình
Huế và nước Pháp, hay đúng ra sự can thiệp trực tiếp của chính phủ Bảo hộ vào nội
bộ triều chính nhà Nguyễn. Theo mốc thời gian thì cơ chế bội tinh này khai sinh
6 tháng sau khi vua Đồng Khánh được tấn phong hoàng đế dưới sự giám sát của người
Pháp. Triều đình Huế sau đó buộc phải chuẩn định cơ chế bội tinh này với vài sửa
đổi nhỏ. Về danh nghĩa, bội tinh do toàn quyền Hoàng đế ban cấp.
Mười năm sau, Đại Nam Long tinh được chính phủ Pháp thâu nạp
là một trong bảy loại huân chương của thuộc địa. Vì vậy, Đại Nam Long tinh còn
được trao tặng cho các quan viên nước ngoài theo đề nghị của chính phủ bảo hộ.
Giấy khâm cấp cũng được bổ sung thêm phần tiếng Pháp bên cạnh phần chữ Hán.
Hệ thống cấp bậc của Đại Nam Long tinh mô phỏng theo Bắc đẩu
bội tinh của Pháp với 5 cấp bậc, nhưng phân làm 2 ban văn võ với danh xưng
riêng biệt
1. Đệ nhất hạng
Khôi kỳ long tinh (văn) Trác dị long tinh (võ)
2. Đệ nhị hạng
Chương hiền long tinh (văn) Thù huân long tinh (võ)
3. Đệ tam hạng
Biểu đức long tinh (văn) Tinh năng long tinh (võ)
4. Đệ tứ hạng
Minh nghĩa long tinh (văn) Tưởng trung long tinh (võ)
5. Đệ ngũ hạng
Gia thiện long tinh (văn) Khuyến công long tinh (văn)
Phác thảo ban đầu của Đại Nam Long tinh do chính quyền bảo hộ
Bắc Trung kỳ đặt ra có hình vuông, sau được triều đình Huế đổi lại thành hình bầu
dục, ở diềm có tia tỏa ra hơi giống hình ngôi sao 8 cánh. Hạng 1 và 2 thì có 16
cánh. Phía trên bài sao, khắc mũ miện hoàng đế (kiểu châu Âu) trang sức hình rồng
sắc xanh, có chân cắm ở trên mũ, làm chỗ đeo ngọc. Trong lòng hình bầu dục, khảm
bằng men xanh và khắc nổi bốn chữ "Đồng Khánh hoàng đế" (同慶皇帝)
theo lối chữ triện . Ở bốn bên, khắc nổi hình mặt trời và mây. Quanh mé ngoài
hình bầu dục có khảm một đường men màu đỏ; bên mé trong, mé ngoài đường men có
viền bằng 2 sợi chỉ vàng.
Trừ Long tinh hạng 5 được làm bằng bạc, các hạng 4, 3, 2, 1
đều làm bằng vàng. Các hạng 4, 5 có đường kính rộng 4 cm; từ hạng 3, đường kính
là 6 cm.
Kèm theo bội tinh còn có văn bằng, gọi là giấy khâm cấp. Mẫu
giấy khâm cấp, mặt trên vẽ rồng, khắc 4 chữ "Đồng Khánh hoàng đế", khắc
ngang 5 chữ "Đại Nam Long tinh Viện" bằng chữ Hán; hai bên vẽ nghi
trượng; mặt dưới vẽ hình bội tinh.
Theo quy định, Long tinh 2 hạng 4, 5, đeo bên ngực trái;
khác nhau ở hạng 4 có hình hoa tường vi, hạng 5 không có. Hạng 3, dây đeo to
hơn, đeo ở cổ, rủ xuống trước ngực. Hạng 2, đeo bài tròn rộng 9 cm, có 8 cánh bằng
bạc, giữa khảm ngọc thạch hình bầu dục như hình long tinh, đeo bên ngực phải;
đeo thêm 1 Long tinh hạng 4 bên ngực trái. Riêng hạng 1, đeo băng Long tinh trắng
có vân, viền cam (vàng sẫm) đối với Võ ban; xanh lục có vân viền cam (vàng sẫm)
đối với Văn ban. Kích thước băng đeo giữa rộng 3,3 cm, 2 bên rộng 0,7 cm. Băng
đeo từ vai phải xuống nách trái. Long tinh rộng 0,7 cm, đeo chỗ 2 dây băng giáp
nhau dưới cánh tay bên trái; ngực trái đeo bài tròn giống hạng 2. Sau năm 1896,
băng đeo đổi thành đỏ viền vàng ban cho các quan lại thuộc Nam triều; băng xanh
lục viền cam ban cho các quan viên người Pháp.
Chỉ riêng Hoàng đế được đeo Long tinh đệ nhất hạng, kèm theo
1 Long tinh đệ ngũ hạng; và được đeo tùy ý, miễn là dễ nhìn.
Khi sang nhậm chức Tổng sứ Bắc Trung kỳ (résident général de
l'Annam et du Tonkin), Paul Bert được vua Đồng Khánh ban thưởng Đại Nam Long
tin đệ nhất hạng. Sách Đại Nam thực lục cũng chép, vào cuối năm 1887, theo đề
nghị của chính phủ bảo hộ Pháp, cấp Đại Nam Long tinh cho 191 quan viên người
Pháp (hạng nhì 14 người; hạng ba 14 người; hạng tư 52 người, hạng năm 111 người)
và 16 quan lại người Việt (hạng nhì: Nguyễn Hữu Độ; hạng ba: Nguyễn Trọng Hợp
và Đoàn Văn Hội; hạng tư: Nguyễn Thuật, Hoàng Hữu Thường, Tôn Thất Phiên, Lê Hữu
Thường, Nguyễn Chính, Lê Đĩnh, Vũ Văn Báo, Nguyễn Trần Cáp, Nguyễn Khắc Vỹ,
Nguyễn Xuân Duẩn, Hồ Lệ, Hồ Đệ và Phạm Hữu Dụng). Vua Đồng Khánh thêm 3 người
là Nguyễn Thân, Trương Như Cương, Tôn Thất Thế, đổi cấp 2 người Hồ Đệ và Phạm Hữu
Dụng thành Đào Tiến và Ưng Quyến.
Đại Nam Long tinh Viện bị giải thể sau khi chính quyền Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập và hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Năm 1950, khi ba
nước Đông Dương đổi quy chế thành ba quốc gia trong Liên hiệp Pháp thì danh hiệu
"huân chương thuộc địa" cũng lỗi thời. Tuy nhiên, quốc trưởng Bảo Đại
vẫn tái lập Đại Nam Long tinh Viện để phong tặng cho các quan lại cũ trên danh
nghĩa Hoàng đế. Nhưng chỉ 5 năm sau, năm 1955, quốc trưởng Bảo Đại bị thủ tướng
Ngô Đình Diệm phế truất nên Đại Nam Long tinh Viện cũng ngưng hoạt động. Tuy vậy,
rất nhiều cơ chế của Đại Nam Long tinh về sau được áp dụng vào Bảo quốc Huân
chương.
(nguồn: Việt Nam phong hóa)
(5)
LE SOUVERAIN DE L'EMPIRE DU SUD, OBÉISSANT AUX ORDRES DU CIEL,
Et voulant reconnaitre les services rendus à sa Personne et à l'Empire, a décidé d'instituer un Ordre honorifique avec insignes, destinés à témoigner publiquement de la distinction dont sont l'objet les personnes auxquelles l'ordre a été conféré.
Sur la proposition du Conseil secret de l'Empire.
SA MAJESTÉ DÉCRÈTE:
Titre I er.
Article premier
. - L'Ordre Impérial du Dragon de l'Annam est institué pour récompenser les services civils et militaires
Art.2
. - Sa Majesté L'Empereur est chef souverain et grand-maitre de l'Ordre.
Art.3
. - Les membres de l'Ordre sont divisés en cinq classes:
Chevaliers;
Officiers;
Commandeurs;
Grands-Officiers;
Grands-Croix.
Art.4.
- La décoration du Dragon de l'Annam est une étoile en métal à huit branches avec pyramide du même métal en relief, surmontée d'une couronne impériale en métal; un dragon en métal, émaillé vert, prend le couronne en forrmant anneau.
Au centre, un médaillon ovale, à fond émail bleu de ciel, porte en relief qutre caractères en or : Đồng-Khánh Hoàng Đế et quatre soleils en or, représentant des soleils héraldiques annamites, rauonnants.
Le listel du médaillon est en émail rouge serti d'or.
Art.5. -
La décoration est en argent pour les chevaliers, et or pour des les officiers, commandeurs, grands-officiers et grands-croix.
Le diamêtre est de 40 millimètres pour les chevaliers et officiers, et 60 millimètres pour les commandeurs.
Art.6.
- La décoration est la même pour les membres civils que pour les membres militaires de l'Ordre.
Art.7
. -Le ruban qui attache la décoration est moiré vert à bords orangés pour les membres civils.
Il est moiré blanc à bords orangés pour les membres militaires.
Le ruban a 38 milimètres de large, les bords orangés occupent 7 millimètres de chaque côté.
Titre II.
Art.8.
- Les chevaliers portent la décoration attachée par le ruban, sans rosette, sur le côté gauche de la poitrine.
Les officiers la portent de la même manière, mais avec une rosette.
Les commandeurs portent la décoration en sautoir, attaché par un ruban de même nature, mais plus large que celui des officieirs et chevaliers.
Les grands-officiers portent sur le côté droit de la poitrine une plaque à huit rayons doubles, diamantée, tout argent, du diamètr de 90 millimètres. Le mesdaillon du centre est celui de la décoration mais tout argent diamanté.
Ils portent en outre la croix d'officier. Les grands-croix portent en écharpe, passant sur l'épaule droite, un large ruban moiré vert, à bords orangés pour les membres civils, et moiré blancs à bords orangés pour les membres militaires; au bas du ruban est attachée une décoration semblable à celle des commandeurs mais ayant 70 millimètres de diamètre.
De plus, ils portent, sur le côté gauche de la poitrine, une plaque semblable à celle des grands-officiers.
A l'Empereur seul est réservé le droit de porter la croix de chevalier en même temps que les insignes de grand-croix que Sa Majesté portera à sa convenance.
Titre III.
Art.9
. - L'Ordre Impérial du Dragon de l'Annam est conféré par Sa Majesté l'Empereur.
Les propositions sont présentées à Sa Majesté par les ministres.
Art.10
. - Des brevets revêtus du cachet de Sa Majesté l'Empereur et contresignés par le Ministre des Rites seront délivrés à tous les membres de l'Ordre Impérial du Dragon de l'Annam.
Art.11.
- Le ministre des Rites est chargé de l'expédition des lettre d'avis et brevets.
Il tient la contrôle des membres de l'Ordre.
Fait au Palais Impérial à Huế, le 9 du 2e mois de la première année de Đồng-Khánh ( 14 mars 1886).
Par l'Empereur.
LE MINISTRE
PRÉSIDENT DU CONSEIL SECRET.
Vu: pour l'exécution,
LE MINISTRE DES RITES/
(6) Grands-croix -ND - mình chưa biết dịch là gì. Chức vụ Tổng chỉ huy (grand chancelier) được lựa chọn từ những người có bắc đẩu bội tinh hạng một (hay ở cấp bập grands-croix).
Nguồn: Les symboles, les emblèmes et les accessoires du
cultes chez les annamites, 1891, trang 36./
Đại Nam Long tinh dành cho Hiệp sỹ
Đại Nam Long tinh dành cho sỹ quan
Cách đeo Bắc đẩu bội tinh của người Pháp