cỏ

cỏ

Thứ Tư, 19 tháng 12, 2018

Vẫn chỉ ở đâu đây,

Mấy nay trời ấm lên, không còn vừa mưa dầm dề vừa rét mướt như một tuần trước nữa.
Tầm giữa trưa với đầu chiều, trời nắng, có phần nóng với chút gió mát thổi hây hẩy như trời mùa hè. Những ngọn gió như vậy thổi giữa mùa đông, vốn từ nhiều năm nay chẳng còn lạ lùng, khi mà mùa đông đang dần biến mất. 

Nhưng, điều làm mình lưu ý, đó chính là tiết trời này, thật giống với tiết trời những ngày giáp Tết vài năm trở lại đây. Thời tiết biến đổi khôn lường. Không còn là mưa xuân rả rích dầm dề rét mướt nữa mà thay vào đó là cái lạnh lúc sáng lẫn khi chiều về, để rồi trưa chiều hửng nắng gió Nam thổi lãng đãng trên những chợ Xuân rộn ràng. Sống giữa tiết trời này, làm mình nhớ Tết quá. Cũng sắp rồi, hơn tháng nữa thôi. 

Mình nhớ những Tết đã qua, khi tâm tư mình còn mộc mạc quá đỗi. Khi mà nhà cửa còn nhiều xốn xang háo hức cùng nhau chờ đón năm mới đang về. Chỉ cần một bộ quần áo mới, cắt một mái tóc gọn, dăm ba khay bánh mứt, chút nước non cùng cành đào cây quất, vậy là Xuân đã về vui vẻ lắm. Nay áo sống chẳng muốn chỉnh tề, tóc tai lòa xòa rủ,... nhưng Xuân vẫn đang về đấy. Xuân đang về cả ở trong lòng với bao hồi tưởng vì một vòng lặp nữa đang sắp khép lại rồi. Dẫu cho bao sự được mất là một đường thẳng chạy mãi, thì cái vòng quay bốn mùa vẫn quay trở lại để lòng mình nhớ nhung thêm.

Qủa thực, mình thấy mình vẫn còn trẻ nhỏ, nhỏ lắm. Vẫn háo hức chờ đón Tết dù cho trong niềm hân hoan ấy nay đã lẫn nhiều hờn trách buồn tủi lẫn lo âu, nhưng vẫn chờ lắm thế. Chờ được nhìn thấy một ngày mới đầy rạng rỡ. Để trong tiết Xuân ấm áp ấy, mình thấy mình đi giữa phố phường thân quen tĩnh lặng, được như lội ngược đời sống trở thành một đứa trẻ vô âu lo, đơn giản là đến với cuộc đời này trong niềm hân hoan và chiêm bái.

Mình chợt nhớ đến một cái Tết năm nào mất điện. Bố và chị gái đã về nội ăn Tết từ hôm mùng 2, cả ngày mùng 3 Tết cúp điện. Hai mẹ con ngồi nhà, ra vào, không tivi, không nhạc nhẽo, nhìn nhau. Rồi đi ra hàng ăn bữa trưa, bánh khoái tép, bánh tôm,.. Cho đến khi trời trở về chiều vẫn chẳng có điện, ngày Tết đường xá vắng hiu, đèn đường lười nhác bật, bóng tối thì xuống mau cùng những cơn gió lạnh cuối ngày thổi mạnh. Mẹ mới nói qua bên bác cả ăn cơm. Thế là đi. Lúc trở về, điện đã có từ thủa nào. Mở vội tivi, xem những chương trình ngày Tết. Niềm vui, chỉ đơn giản thế thôi.

Hay như năm nào ngày Tết mình trở bệnh. Bố và chị gái về nội ăn Tết về mình vẫn ốm. Bố ngồi ôm mình trong lòng, khi mà hồi đó nhà còn chưa sửa hay xây lại như giờ , chiếc bàn nước chân sắt cũ kỹ cùng chiếc ghế đôn ngồi quay mặt ra đường. Chiếc bàn cũ hỏng đến nỗi dù đã thử gia cố nhiều lần, nhưng cuối cùng cũng phải bỏ đi một ngày trời đẹp năm nào. Ngoài phố trời chiều vàng ươm đến lạ, tiếng cười đùa của lũ trẻ râm ran, cùng với tiếng pháo nổ đì đùng.

Hồi sáng, xem lại đống ảnh cũ, bỗng thấy ảnh em mèo mình nuôi một thủa. Nó đã bỏ đi mà không một ai có thể trách cứ. Không biết đó là ngày nào. Chỉ đơn giản là chẳng còn nhìn thấy được nhau. Vậy mà nay bỗng lại thấy lại. Suy cho cùng, sự đi rồi nhưng vẫn chỉ ở đâu đây. 

Thứ Hai, 20 tháng 8, 2018

Gió đang lặng, và cây đang đứng im.

Sáng nay ngủ dậy với đầy uể oải, chợt có phần thần người lại, khi một lần nữa nghe thấy tịnh mịch quanh mình. Thanh âm của cuộc sống trôi dạt đâu xa quá đỗi.



Hôm nay tôi bỗng nhớ cồn cào những con đường của vùng Vandoeuvre-lès-Nancy cùng phía ngoại ô La Sablière của mùa xuân năm ấy. Những con đường quê vùng ôn đới với đầy cỏ xanh và những loài hoa trái dại vào mùa xuân rực nở. Có một mảnh đất hoang có cỏ phủ đầy, trồi lên đấy những bông tulip tươi thắm mọc rải rác mà có lẽ từng một mùa xuân nào đấy tại nơi đây là khu vườn đầy hoa thơm; nay chỉ còn lại những củ tulip nằm sâu dưới mặt đất mỗi năm đến độ lại trồi lên đơm hoa. Có những bậc thang bằng gỗ có màu thời gian để bước lên xuống những triền dốc, cỏ và những bông hoa anh thảo chen lấn nhau. Có những bóng đoạn lá nhỏ rủ xuống lòa xòa trong gió, những bông hoa li ti phả ra mùi hương dịu nhẹ thơm mát. Có những bông hoa thủy tiên, hoa diên vỹ suốt dọc những lối đi. Và cả một mùi hương thoang thoảng của loài oài hương tím biếc. Những con vịt giời lại về bơi lội trên mặt hồ, dưới những bóng cây rẻ quạt. Cây phong lại đâm chồi. Tử đinh hương tím ngắt trong sân ký túc. Những cây mơ, cây mận hoa rực nở một vòm trời mà khi đứng dưới vòm cây ấy, cam giác như thân phận chợt tan biến vào hư không. Trên đôi giày Geox da lộn màu nâu sậm yêu thích mà theo thời gian đã hư mòn đến độ phải vứt bỏ, từng bước chân tôi sải qua những nẻo đường, miệng lẩm nhẩm đôi câu của vài bài hát mà ngày ấy tôi còn đang say đắm: ' Khi xưa em gầy gò, đi ngang qua nhà thờ, trông như con mèo khờ, chờ bàn tay nâng đỡ. Ta yêu em tình cờ, như cơn mưa đầu mùa, rơi trên sân cỏ già, làm rụng rơi cánh hoa.'; 'Đưa em về dưới mưa, nói năng chi cũng thừa. Như mưa đời phất phơ, chắc ta gần nhau chưa?". Tòa lâu đài Montaigu mà phía sau có những bức tượng thiên thần phơi nắng phơi mưa, trong những cơn nắng vàng nhạt đấy, tôi ngẩn ngơ ngắm nhìn. 



Lại nhớ tới cây táo hoang nơi triền dốc cây cầu vượt cạn sai trĩu quả mà ngày nào anh em cùng nhau thu hái những bị đầy mang về, đeo cả những balo hay túi kéo đi chợ để tiện cho chứa đựng, liệu những trái nặng kia có làm cho cành gãy đổ? Còn có ai ra đó mà hái những trái thơm mang về, hay là cứ để chúng rụng rơi xuống mặt đất khô lạnh và đầy những loài sâu đất rỉ rích gặm nhấm đêm ngày? Ngày đó, trên những con đường từ gốc táo dại trở về ký túc bằng ngang qua những con đường tôi chẳng nhớ tên, qua khu trường nội trú dành cho trẻ khiếm thính có những cây lê chi chít quả cứ rụng mà không ai thèm đoái hoài, qua những khu nhà thu nhập thấp cho người da màu với dăm ba câu hát như tự thủa hồng hoang, trong bóng chiều nhá nhem, hai bóng người cứ khuất dần, khuất dần chìm vào trong bóng tối. Trong đó, có tôi. 

Đôi khi, những kỷ niệm một thủa ùa về nhanh như gió bão. Đến rồi đi vô tình. Nhưng lòng người thì thăm thẳm những hố sâu không tên, cứ găm đầy những nỗi nhớ. Những tháng ngày âm u, đang qua và cũng đang thật gần, chỉ còn biết lặng im.

Thứ Năm, 2 tháng 8, 2018

Cây trượng (Le baton des bonzes) ;

Cây thần trượng hay còn gọi là trượng của Địa tạng. Đó là cây trượng của các sư thầy, được họ cầm theo trong các dịp lễ lớn dùng để trừ tà ma.

Truyền truyết kể rằng thân phụ của Địa tạng bị đọa vào địa ngục, con trai họ muốn tìm cách cứu họ ra. Ông đã ẩn sơn, học tập, tụng kinh và tự hành xác mình. Khi mà ông đạt tới cảnh giới cao nhất, ông đã tiến đến cửa địa ngục và gõ cửa ba lần từ bên ngoài bằng cây trượng mang theo. Cây trượng này phía trên đỉnh là một vành tròn bằng đồng được xâu nhiều vành tròn khác cùng kim loại. Cửa địa ngục mở ra và cha mẹ của Địa tạng được ra khỏi đó.

Từ đó trở đi, cuối mỗi dịp Tết hàng năm, các sư thầy tổ chức một buổi lễ mà người ta gọi là lễ "mở cửa địa ngục" nhằm mục đích siêu thoát những linh hồn được cầu tụng hay làm lễ tế sinh trong suốt năm; khi đó để tưởng nhớ tới việc giải cứu cha mẹ khỏi địa ngục của Địa tạng, sư chùa sẽ dùng cây trượng của họ như một nghi thức tôn giáo.

Cây trượng này không khác gì cây trượng Fo (ND - nguyên gốc) của các bồ tát Trung hoa, cây trượng của Đức phật mà vốn dĩ người An nam không rõ về sự tích của nó. Trong Fo-Kouo-Ky có nói thành phố Hi-Lo nằm ở biên giới giữa Afghanistan và vùng đất Do thái, có một cây trượng của Đức phật được đặt trong một ngôi đền đặc biệt lưu trữ thánh vật này. 'Trượng được đặt trên một cái đầu bò bằng gỗ đàn hương, dài 6 đến 7 thước. Người ta đặt nó vào trong một cái ống bằng gỗ mà phải mất cả trăm thậm chí cả ngàn người mới rút ra được."

Cây trượng là một vật bất li thân cho những thầy tu đi hành khất, gọi là cây trượng của đức tin, của sự khôn ngoan, của thanh âm bởi vì âm thanh do những vành kim loại trên đầu trượng va vào nhau tạo thành. Có một loại Sy trương kinh (? ; rituel du bâton) mà được truyền miệng nhau là phải được làm bằng thiếc vì đó là kim loại nhẹ nhât; ở đây ta thấy người ta làm trượng cả bằng đồng, xung quanh những vành tròn được khắc chữ Phạn.

Các thầy chùa cùng các thầy phù thủy đều  đuổi ma quỷ bằng một cây vương trượng bằng đồng; đó là một biểu trưng cho Đại Thế Chí Bồ tát (Vadjrapani), người cầm vương trượng kim cương.

Trong các đám rước, các thầy chùa đi tay cầm cây trượng, phía trước họ  sẽ là trống, mõ, trống cái cùng một số nhạc cụ khác để tạo thành một âm thanh tương đối hỗn độn; đi đầu của đoàn rước đôi khi là một nhạc cụ khá kỳ lạ mà người ta gọi là cái-bàn-nhạc gồm nhiều quả lục lạc. Nó được tạo bởi hai mặt gỗ có chiều dài không tương xứng gối vào nhau. Dọc theo chiều dài, người ta treo thành ba hàng những chiếc lục lạc bằng đồng với đủ kích cỡ cho mỗi mặt gỗ, rồi họ vỗ tấm này vào tấm kia để tạo nên thanh âm hòa cùng với các nhạc cụ khác. 

Nguồn: Les symboles, les emblèmes et les accessoires du cultes chez les annamites, 1891, trang 166.

Con sư tử (Le lion) ;

Ở Bắc kỳ, hình ảnh con sư tử được thể hiện rất nhiều trên nắp đỉnh hương hay trên các cột trụ ở đền, chùa. Đó là một họa tiết trang trí có nguồn gốc từ Trung hoa; một số hình mẫu sư tử của người Khmer (singha) cũng du nhập vào Bắc kỳ và được đón nhận nhiệt tình, tuy nhiên dường như chưa có sự pha trộn nào với hình mẫu sư tử phương Bắc.

Con sư tử luôn thường thấy ở tư thế đang vờn chơi, thân nó uốn cong, đầu nghiêng về một bên, các vuốt đang túm lấy một trái cầu. Nó đeo một quả lục lạc treo trên cổ.

Trong các huyền thoại hay trong các truyền thống địa phương, không có bất kỳ một giai thoại, dấu tích nào về loài vật này, dường như nó không đóng một vai trò nào trong thần thoại An nam.

Các cuốn hán thư thường xuyên nhắc về loài sư tử này, trong cuốn Bản thảo cương mục nói nó là vua của muôn thú, từ đó mà có tên gọi "Sư" nghĩa là thầy.

Dưới triều nhà Hán và nhà Đường, vua các nước lân bang tiến cống sư tử cho hoàng đế Trung hoa nhiều lần liên tiếp mang ý nghĩa tiểu quốc thần phục Thiên quốc.

Một người tên là Ngô Thế Nam viết một bản chuyên khảo về sư tử như sau: "Nó có bộ ngực rộng, đuôi dài, các chi khỏe, bộ lông mượt, bước chân uyển chuyển, nó bước đi không để lại thanh âm; khi vui chí nó quẫy đuôi va duỗi chi trước với cái đầu lắc phải, trái để giữ thăng bằng; khi giận dữ, nó nhe răng, mắt trợn như tia sét, gầm lên như sấm vang."

Ở bờ biển Tứ quốc có một loài sư tử mà tiếng gầm của nó làm yêu ma phải tan biết; răng nó dài, đầu màu đồng còn gương mặt màu của sắt, mắt nó tròn và mõm thì rất dài. (1)

Dưới triều nhà Nguyên, vua Ba Thư (?) dâng một con sư tử cho Tranh Dê(?) để hoàng đế giải trí bởi việc coi con sư tử chiến lại với các loài thú khác. Trong chuồng có hai con hổ đều nằm phủ phục dưới chân sư tử, một con gấu được đưa đến cũng vội tìm chỗ trốn khi ngửi thấy hơi sư tử. Nghe thấy tiếng gầm của sư tử, ngựa cũng đái ra máu. (3)

Dưới triều nhà Tống, vua Tây Vực đã triều cống một con sư tử. Khi đi đến Yên Tây, người ta buộc con sư tử vào một gốc cổ thụ nằm gần một cái giếng, con sư tử gầm một tiếng dài, ngay lập tức mây đen ùn ùn kéo tới, mưa rơi như trút nước, trong giếng có một con rồng cũng bay lên trời mà trốn. (4)

Một thầy tu tên là Than That(?) từ Ấn độ đến Trung hoa, băng ngang qua một khu rừng gần Dai Thang (Đại Đường? -ND) thì nghe thấy một tiếng gầm lớn rồi sau đó muông thú đều bỏ chạy trong hoảng loạn; bốn con voi cách đó không xa vẫn nằm bên đầm lầy với cái vòi cuộn che lấy thân. Thình lình, ba con sư tử đi ra từ sơn động vừa đi vừa nhảy nhót tiến lại, chúng cán nát những cây cỏ ngáng đường chúng qua. Chúng xông vào bốn con voi mà xé xác ra thành từng mảnh.

Một hôm có một người mang đến sân Ngũ Yên (la cour des Ngu-yen) một con thú có đầu hổ chân chó, bộ lông loang màu xanh và đen, không biết nên gọi tên là gì. Người ta cho nó vào chung một chỗ với hổ, gấu và những loài thú hung dữ khác, chúng bắt đầu run rẩy. Con vật lạ kia đánh hơi những con còn lại và đái lên trên đầu chúng. Từ đó mà người ta đặt và gọi loài sư tử là một loài đặc biệt.(5)

Luc-Khay(?) ốm đau với cơn sốt đã vẽ lên cửa nhà một con sư tử rồi trở lại giường nằm.Đêm đó, ông nghe thấy tiếng động lạ trước cửa nhà, tưởng đâu là lũ trâu trọi nhau. Buổi sáng hôm sau ngay khi mở cửa. ông nhận thấy con sư tử được vẽ trên vách có mõm bị vấy máu. Cơn sốt cũng qua và không bao giờ quay trở lại nữa.

Cuốn sách Bát vật chí viết rằng nếu dùng đuôi sư tử để quạt mát, muỗi sẽ biến mất theo.

Học giả biên Kỳ Văn khẳng định rằng có loài sư tử màu xanh và có những loài màu trắng, chúng khỏe hơn rất nhiều so với loài sư tử thông thường. Ông thêm rằng sữa của sư tử cái thấm xuyên qua cả những kim loại cứng nhất và chỉ có thể đựng được trong lọ thủy tinh.

Phân của sư tử được dùng làm hương gọi là Tho hơp (?)

Điệu múa rồng được du nhập từ Trung hoa qua Bắc kỳ, đôi khi người ta thêm vào điệu múa này một linh thú khác đóng vai trò kích thích con rồng. Người ta gọi đó là con lân (con sư tử).

Thế nhưng, không có gì là tuyệt đối chính xác. Như trong bài viết khác đã hay, địch thủ của loài rồng là loài hổ, tượng trưng cho mặt trời mùa xuân trong chòm sao Bạch hổ.

(1) Dong quan ky.
(2) Ky Van
(3) Ky van
(4) Kế chích.
(5) Kouang Sư loai.
Nguồn: Les symboles, les emblèmes et les accessoires du cultes chez les annamites, 1891, trang 161.

Thứ Tư, 1 tháng 8, 2018

Ngọc ký (L'étagère) ;

Ở những gia đình khá giả hay trong phủ quan lại, thường thấy một  cái kệ nhỏ được gọi là ngọc ký (kệ hình chữ văn). Ngọc ký có nguồn gốc từ Trung hoa, luôn được trưng bày trên đó năm món đồ theo trình tự ở hình minh họa bên dưới. 

Một bầu bằng đồng hoặc gốm sứ men chàm để đựng rượu. Bầu rượu.

Một lọ hoa cổ cao để cắm hoa.

Một lư hương không chân hoặc ba chân.
Một ống cắm bút.

Một đĩa bồng (đĩa ngũ quả) được bày năm loại quả mang tính biểu tượng : đào , nho, mơ, hạt dẻ, táo nhưng bởi sự khan hiếm của những loại quả này ở Bắc kỳ, người ta thường bày những loại quả mang hương thơm như trái cam hay quả Phật thủ.

Việc trưng ngọc ký trong gia đình có ý nghĩa về mặt tín ngưỡng. Ngọc ký là một bàn lễ vật mà trên đó người ta xếp những món đồ của đất, nước, hoa trái ; những điều khởi phát từ loài người, triết học và văn học được tượng trưng bởi ngòi bút lông, còn lư hương tỏa khói bay lên trời tượng trưng cho những lời cầu nguyện.

Nguồn: Les symboles, les emblèmes et les accessoires du cultes chez les annamites, 1891, trang 159.

Bát tiên (Les huit Génies) ;

Bát tiên là tám vị tiên trong Lão giáo mà người An nam dùng hình ảnh đó rất thường xuyên làm đồ án trang trí cùng với tứ linh, ngũ phúc,...Tám vị tiên mỗi vị mỗi vẻ khác nhau; lưu ý là đứng đầu là Lão Quân (Lao ste) người sáng lập ra Lão giáo, ngồi trên lưng một con trâu. Tám vị tiên bao gồm : 1. Lã Động Tân đứng trên lưng một con cá -  2. Thiết Quải Lý ngồi trên một chiếc lá, tay cầm trượng - 3. Hán Chung Li (ND - sách chép là Chung li quyên) đứng trên một con cua - 4. Tào Quốc Cữu đứng trên một nhành cây - 5. Trương Qủa Lão ở trên lưng ngựa - . Lam Thái Hòa đứng trên một con có ba chân (thiên thú) - 7. Hàn Tương Tử cưỡi một con tôm, đang thổi sáo - 8. Hà Tiên Cô, nữ nhân duy nhất, đứng trên một cánh sen, một tay ôm trái đào, một tay cầm lẳng hoa.

Tám vị tiên được thể hiện trên các bức tranh ở thần thái vui vẻ, hạnh phúc. Đôi khi, xuất hiện thêm Tây Vương Mẫu (sách chép Tây Hoàng Mẫu), một người phụ nữ có tuổi ngồi trên lưng một con cò, bà là "người cai quản phương Tây". Theo những người An nam theo đạo lão giáo, phía tây của thế giới do Tây Vương Mẫu cai quản, bà tạo ra đàn bà, cũng như Đông Vương Công được giao việc tạo ra đàn ông. Trong cung điện của họ là một đỉnh tháp có chín viên bảo ngọc, mỗi viên là nơi trú cho một tiên cô lần lượt là: Hoa, Lâm,Mi, Lau, Thang, Nga, Dao, Cơ, Ngọc chi.

Nguồn: Les symboles, les emblèmes et les accessoires du cultes chez les annamites, 1891, trang 158.

Lư hương (Les vases de culte) ;

Việc sản xuất và buôn bán đỉnh hương, lọ thờ phát triển tạo thành một ngành thương mại quan trọng với số lượng thợ thủ công và con buôn lớn ở Hà Nội. Một ngôi làng khép kín rất lớn tọa trên một hòn đảo ở Hồ Tây, gần đền Quán Thánh hoàn toàn làm ngành nghề này. Có cả một con phố chuyên bán đồ đồng.

Mỗi một ban thờ cần được trang bị một bộ đồ thờ mà người ta gọi là đồ ngũ sự. Chúng bao gồm:
1. Đỉnh hương
2. Hai chân đèn
3. Một cặp chân nến
4. Hai ống cắm hương
5. Ba chén nước thờ được đặt trên đế.

Hình dáng lọ ít có sự khác biệt, người ta đếm được khoảng một tá mẫu khác nhau nhưng chung quy lại chỉ có ba mẫu thường gặp trong tất cả các chùa mà hoàn toàn phù hợp cho các buổi lễ.

Đỉnh hương vuông là loại có bốn chân, trên nắp có một con lân, có hai phụ kiện đi kèm theo; ống thìa dài hình buông dùng để cắp đôi đũa giống (bâtonnets de cuivre) và một casixucs nhỏ để xúc tro để cều lửa trong đỉnh hương; lọ thứ hai được đậy nắp, đôi khi nắp được làm rất tỉ mỉ, nó dùng để chưa hương, gọi là Hộp hương.



Lư hương tròn thì có ba chân, không có nắp đậy. Nó được lấp đầy bởi tro để làm nơi cắm que hương.

Trong các ngôi chùa Trung hoa, lư hương có một kích thước vô cùng lớn, điển hình thấy như trong Hội quán Quảng đông ở Hà Nội.

Vạc ba chân mang tính biểu trưng cao; ở Trung quốc nó tượng trưng cho tam quốc, ba quốc gia cùng tương hỗ nhau.

Dưới thời vua Cao Tông triều Đường, An nam Đô hộ phủ (1) là một trong ba vùng kết hợp mà người ta thường gọi là ba chân vạc. Đầu tiên là vùng quân sự Giao Châu nằm ở Long Biên, ngoại ô Hà Nội, tiếp đến là thủ phủ hành chính Quế Lâm mà ngày nay là một phần của tỉnh Quảng Tây, cuối cùng là nơi vua ngự, Phiên Ngung (番禺区)hay Quảng Châu ngày nay. Ba vùng này trên thực tế tạo thành 3 đỉnh của một tam giác.

Ở Bắc kỳ người ta phát hiện những dấu tín biểu tượng cổ đại này trong niềm tin, tín ngưỡng của tộc người Mường, tộc người đã duy trì các phong tục và cách thức tổ thức chính quền người giàu làm chủ; người ta nói ở tộc Mường bi sống ở sông Đà, có dòng họ Đinh vẫn còn lưu giữ cái vạc lớn to  đến mức có thể thui ba con trâu cùng lúc trên nó.

Đỉnh tròn cũng là mội loại đỉnh hương có ba chân nhưng hình tròn, phía trên nắp có một con sư tử, thường đi với hai cây chân nến bằng đồng tạo một bộ tam sự.

Đối với bàn thờ thần linh, bắt buộc phải có moojtt bộ thờ bao gồm: một đỉnh hương vuông không nắp, hai lọ trang trí và hai chân nến, tất cả làm bằng thiếc được gọi là bộ ngũ sự bằng thiếc. Một số đền chùa có điều kiện eo hẹp thì chỉ có những bộ đồ thờ này bằng gỗ nhưng hình dáng cách thức thì không được thay đổi, các lọ được phủ bởi một lớp giấy mạ thiếc sơn thiếp.

Ta cũng bắt gặp những bình hình quả đào, quả hạnh, quả lựu với sự tượng trưng cho Phúc, Thọ. Một số vật dụng khác nằm rải rác đó đây đang ngày một trở nên khan hiếm hơn cho thấy một số thời kỳ mà nghệ thuật đồ đồng ở An nam phát triển rực rỡ; người ta nhận thấy ở những món đồ đó, xuất xứ cũng như những đồ án trang trí mà ngày nay không còn thấy nữa.

Chỉ cần một chút hiểu biết, bằng mắt thường ta cũng có thể nhận ra được đồ đồng Trung hoa. Chúng là những món đồ rất cổ được phủ một lớp gỉ mỏng, trước đây được đặt làm bởi những nhà giàu có tiến cống cho các đền chùa mà ngày nay đã không còn tồn tại nữa nên những vật dụng trong đó trở thành của công thất lạc vào trong dân gian. Những món đồ này lọt tới thị trường Hà Nội, một số món được làm nhái lại nguyên mẫu.



Ngày nay, người thợ thường đúc ba tới bốn mẫu thông dụng kể trên cùng một số mẫu đặc biệt phần lớn được đặt bởi những khách hàng a-ma-tơ người Âu châu. Có rất ít những sản phẩm tinh xảo do quá trình đúc không tuyệt đối chính xác hoặc do sự va chạm, cọ sát lẫn nhau làm các hoa văn, nét chìm nổi có phần nhòe mờ. Dũa và dao khắc không được biết tới ở đây để đọc trạm sản phẩm. Họ mài chúng vào những phiến đá mài hay chà sát sản phẩm bằng cát ẩm trộn với gio bếp để tạo độ sáng bóng cho đồ đồng.

Người An nam sản xuất nhiều món đồ nhái theo lối cổ để lừa những người mua a-ma-tơ từ Âu châu với mức giá cao hơn tới 15 lần bằng cách cố tình tạo sứt mẻ hay ngâm vào một loại dung dịch đặc biệt để tạo một lớp gỉ đồng mỏng.


(1) ND - An Nam đô hộ phủ (chữ Hán: 安南都護府) là tên gọi Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3, từ năm 679 đến năm 866, với bộ máy cai trị của nhà Đường trên vùng tương ứng với một phần tây nam Quảng Tây (Trung Quốc), Miền Bắc và miền Trung Việt Nam ngày nay, có địa bàn từ Hà Tĩnh trở ra. 
Đô hộ phủ (chữ Hán: 都護府) là các cơ quan quản lý các khu vực biên giới của một số triều đại phong kiến Trung Quốc.

Nguồn: Les symboles, les emblèmes et les accessoires du cultes chez les annamites, 1891, trang 152.

Thứ Ba, 31 tháng 7, 2018

Bia (Les stèles) ;

Trên con đường ngang qua chùa, ở mỗi bên chùa đều có một tấm bia đá nhỏ, đỉnh tròn, dựng đứng, trên mỗi bia được khắc hai chữ hán lớn "Hạ mã " và "Thượng mã". "Hạ mã" là một lời mời gọi người lữ khách xuống ngựa, đi bộ qua đền chùa để tỏ lòng tôn kính với thần phật bản thổ.

Người An nam cũng dựng những bia nhỏ trên mộ phần của người mất, dựng ở phía trên đầu. Nó có bề ngang nhỏ hơn so với loại kể trên, đôi khi rất thô sơ và không có thể thức cố định; một mặt được khắc cho hay tên và học vị người quá cố, không tuổi, nghề nghiệp hay ngày mất; luôn có một lời đề : Tới thân phụ , Tới bá phụ, ...Trừ trường hợp đặc biệt ở những gia đình giàu có luôn lưu giữ mộ phần tổ tiên, các ngôi mổ được bảo quản và chăm sóc cẩn thận cho đến thế hệ thứ năm; luật không tính thế hệ thứ năm là chung một họ tộc và họ có thể kết hôn lẫn nhau. Con cháu có thể kết hôn và tạo thành các chi, các tộc mới. Bia cho người quá cố được gọi là bia mộ chí.

Bia kỷ niệm việc dựng hay tu bổ đền chùa, cầu đường hay những công trình để lưu truyền một sự kiện lịch sử hay tôn giáo hay để lưu lại sự quyên góp từ những tín hữu đôi khi thực sự là một tác phẩm nghệ thuật.

 Bia được đặt biệt bảo quan như một tác phẩm điêu khắc, có lúc quan đến một sự kiện trọng đại, lúc khắc ghi tên tuổi riêng mà người ta không muốn bị tàn phá bởi thời gian, thông thường bia được đặt  dưới mái một công trình kiến trúc nhỏ nhằm tránh mưa tránh nắng; ví dụ như bia của đàn Nam giao nhà Lê là một trong những tác phẩm tuyệt mỹ nhất ở xứ Bắc kỳ này mà vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay nằm ở giữa đồng ruộng trên phố Huế, gần thành cổ Hà Nội. Đàn Nam Giao đã bị xóa sổ từ 60 năm nay.

Bia đá hiện nay làm theo hình chữ nhật với đỉnh bia tròn; trên trán bia được đọc đẽo những biểu tượng, hoa văn mang tính biểu tượng, đôi khi tràn xuống cả thân bia. Chúng tôi đã bắt gặp chỉ một lần duy nhất sự thể hiện họa tiết hình người trên bia đá kiểu này ở chùa Lãnh (Lanh?) ở Hoài Đức. Bia khắc hình hai người phụ nữ chân quê đang cưới trên một con rồng được vẽ và khắc nét tinh xảo; bia nầy được làm bằng đá hoa có niên đại dưới triều vua Lý Thánh Tông. (1)

Tên công trình kiến trúc mà bia đá thuộc về được khắc nổi, trên trán bia là dòng chữ được khắc chìm với mỗi chữ được đặt riêng biệt trong một ô có trang trí hoa văn xung quanh.

Bia đá có thể được làm một phần tường hoặc gắn chặt vào tường của đền chùa, hay dựng đứng trên một bệ khối đặc được trạm khắc cầu kỳ hay không.

Phổ biến thường thấy nhất là bia đã được dựng trên lưng một con rùa lớn bằng đá để vinh danh những công trình kiến trúc nổi tiếng hoặc những tên tuổi lớn trong hàng ngàn năm với ý nghĩa trường tồn như tuổi thọ loài rùa.

Trong Văn miếu quốc tử giám ở Hà Nội, nơi mà người Âu châu gọi bằng cái tên khác là chùa quạ (Pagode des Corbeaux) , có 82 bia đá được dựng trên lưng rùa, được sắp xếp cân xứng xung quanh một hồ lớn hình chữ nhật (ND - giếng Thiền Quang?). Chúng ghi dấu của những cuộc thi khảo đã diễn ra ở nơi này dưới sự chủ tọa của vua từ năm 1476 tới 1784 , trên bia là tên của những người trúng tiến sỹ.

Những bia đá có dấu phết tàn phá của loài người là minh chứng cho những thời kỳ biến động hay sự thay đổi vương triều.

Nhiều những đoạn ghi chép lại về các nhân vật chính trị hay sự kiện lịch sử đã bị tẩy xóa bằng đục trên bia đá, điển hình như trên bia đá đền Quán thánh (pagode de Grand Bouddha de Hanoi) để ghi chép lại công trạng nhà Trịnh phò tá vua Lê giành lại ngôi báu ở Hà Nội; cũng như là để loại bỏ những điều xuyên tạc, không đúng sự thực về công trạng của một nhân vật lịch sử được khắc trên bia đá.

Tấm bia đá ở một trong những đền chùa xứ Đình Bảng khắc tên vinh danh một vị vua triều Lý, nằm gần khu rừng nơi cất giữ mộ phần các vua triều đại này, đã bị phong kín trong một hầm nhỏ vây quanh bởi tường khối và chỉ mới được phát hiện thời gian gần đây.

Để làm tỏ hơn về những văn tự được khắc trên bia, bản dịch bia kỷ niệm về việc xây lại cầu bắc qua sông Tô lịch năm 1719, được biết với tên Cầu giấy được dịch như dưới đây.

' Cầu được xây để nối đôi bờ sông cho phép sự đi lại tự do hơn giữa đân cư đôi bờ; nó là một công vụ lớn phục vụ cho quần chúng. Chân thành cám ơn những người đã đóng góp vào công cuộc nầy. Tuy nhiên sau nhiều thế kỷ tồn tại, cầu trong cảnh đổ nát cần một lần nữa lên tiếng tới nhà cầm quyền một sự tu bổ.

Cầu Giấy tiếp giáp về phía đông với Ville Royale(2), về phía nam trông ra núi Tản Viên (3), về phía bắc với Sông Nhị Hà (4). Dưới cầu là sông nước chảy qua nhiều đình, đền.

Hôm nay, khi việc tu bổ đã hoàn thành, dân cư đôi bờ đi lại thuận tiện như xưa; cây cầu được tu sử sẽ mang lại niềm vui cùng nhiều lợi ích cho các vùng xung quanh, bởi vậy bia này dựng lên nhằm ghi lại sự kiện đáng nhớ này.

Cầu được tu sửa vào mùa đông năm Vĩnh Thịnh thứ 43 (5).

Soạn văn tự, quan thái thú Nguyễn Đình (Dinh?) phủ Quốc Hoài (Hoai?).

Khắc chữ Đỗ Văn An, người làng Yên Khê huyện Thường Phục.'

Ở Ấn độ, việc hiến đất xây đền chùa cũng được ghi, khắc lên những bia bằng đồng hay bằng kim loại khác,

(1) Vị vua thứ ba của triều Lý, trị vì 19 năm từ năm 1054 tới 1072. Lý Thánh Tông đã cho xây dựng ở Hà Nội ngôi tháp Báo Thiên nổi tiếng. Ở vị trí của tháp này hiện vẫn còn lưu lại những dấu tích xưa bằng những khối đá được trạm trổ khéo léo lẩn khuẩn trong rễ của những gốc đa già. Tháp cũ tọa trên phố Nhà chung ( Rue de la mission), nằm giữa nhà thờ lớn và nhà quan Tổng đốc.

(2)Thăng long, Hà nội.

(3) Núi Ba vì

(4) Sông Hồng

(5) 1719. Triều vua Lê Dụ Tông.
Nguồn: Les symboles, les emblèmes et les accessoires du cultes chez les annamites, 1891, trang 146.

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2018

Mõ ( Le tamtam de bois);

Mõ là một nhạc cụ làm bằng gỗ, rỗng ở bên trong, có hình dáng như một cái lục lạc với độ lớn to bằng một trái táo cho tới bằng một quả bưởi. Các thầy chùa dùng mõ để điểm xuyến khi tụng kinh.

Người ta dùng một cái dùi bằng gỗ cứng để gõ mõ, nhờ rỗng bên trong nên tiếng kêu của mõ rất vang.

Thầy phép cũng gõ mõ trong các lễ chiêu hồn.

Mõ, cũng như khánh, có nguồn gốc từ Trung hoa, được viết trong Lễ ký dưới dạng một quả chuông. Người tàu cổ xưa sử dụng mõ để tập hợp mọi người, kẻ gõ mõ để rao tin tức, để tuyên thánh chỉ, vừa đi vừa gõ khắp các làng mạc.

 Ở Bắc kỳ, trong đình làng, luôn có hai nhạc khí để ra hiệu, một cái trống cái để triệu tập chức sắc và một cái mõ để gọi thường dân. Cái mõ này thì dài hơn rất nhiều so với mõ trong chùa; đôi khi nó có dạng như một con cá (ngư mõ), được treo vào xà đình; thường được gõ để hối thúc dân đến nộp sưu thuế.

Ở những điếm canh, chòi gác nằm quanh làng và gần nhà quan được túc trực bởi dân làng , người ta gõ mõ theo lối nào đó để báo hiệu giờ giấc buổi ban đêm và từng giờ từng khắc cho tới giờ sáng.

Tiếng mõ vào ban đêm cùng với nhịp gõ hối hả từng chút một rồi giảm dần cường độ, khá xa lạ với người dân Âu châu, tạo cho người ta một cảm giác lo âu. Nó góp phần vào việc đem lại một thanh âm thực sự Bắc kỳ mà không một người dân An nam nào có thể quên được trong văn thơ.


Một điệu hát về vẻ đẹp quê hương đất nước như sau:

Il est nuit, nuit profonde,
L'étoile du nord brille au ciel,
La brume couvre le fond des rizières;
Les bosquets de bambous s'agitent;
Ils sont remplis du cri des cigales
Les veilleurs de nuit frappent sur le mo
Les bonzes font résonner les cloches des pagodes,
On entend les paysans se réjouir,
On chante dans toutes les chaumières
C'est la paix.
(Les chant et les traditions populaires des Annamites, op.cit.)

Tạm dịch:

Đêm, đêm đã xuống sâu,
Ngôi sao phương Bắc đang rực sáng trên bầu trời,
Sương khuya phủ kín những mặt sông,
Bụi tre đang đung đưa la đà,
Tiếng cót két như loài ve sầu
Lính tuần đêm thì gõ mõ
Thầy chùa điểm chuông
Ta nghe thấy tiếng dân lành reo vui
Người ta hát mừng trong những vách nhà gianh,
An bình là đây.

Nguồn: Les symboles, les emblèmes et les accessoires du cultes chez les annamites, 1891, trang 143.

Khánh đá (Le tympan de pièrre) ;

Khánh là những vật dụng đáng lưu tâm mà mỗi chùa lớn đều có một cái. Nó được làm từ một phiến đá xanh theo hình lưỡi liềm được trang trí với phần giữa lồi lên có một lỗ nhỏ trên đầu để làm nơi treo móc.



Khánh có âm khá vang, người ta thường gõ khánh bằng một chiếc búa gỗ vào điểm phình ra được làm nằm ở vị trí giữa khánh.

Khánh đá có nguồn gốc từ Trung hoa; tuy nhiên hình dáng của nó đã hoàn toàn bị biến đổi. Những bức vẽ về khánh tìm thấy trong các cuốn cổ thư của Trung hoa theo dạng hình ke góc vuông. Nó là một trong những nhạc cụ cổ xưa nhất của loài người. Người ta treo trúng thành hàng nhiều ít vào một cái khung gỗ và gõ bằng một cái búa nhỏ tạo nhịp điệu.

"Khi ta gõ vào khánh đá, vua Thuấn nói, muông thú phủ phục quanh ta và hoan hỉ vui mừng."

Việc sử dụng đá để tạo âm sắc như một thanh cụ báo hiệu hẳn nhiên đã được dùng từ trước thời kỳ đồ đồng của nhân loại. Không có gì là kỳ lạ khi việc này vẫn còn tồn tại ở nhiều tộc người có đời sống khép kín với văn minh nhân loại mà duy trì nếp sống nguyên thủy từ 40 thế kỷ trước với cơ cấu tổ chức và ngôn ngữ không hề thay đổi.

Nhiều chùa dùng khánh đồng thay cho khánh đá.

Cũng như chuông, khánh được tín hữu cung tiến cho các chùa; trên khánh được khắc dương văn hoặc âm văn kể về hoàn cảnh xuất xứ, đôi khi là cả trọng lượng, giá trị và tên của những người cung tiến.

Sau đây là đoạn dịch văn tự được khắc trên chiếc khánh đồng lớn thuộc về đền Quán Thánh, Hà Nội.

Chùa Trấn Vũ (ND - La pagode de Tran Vu hay còn gọi là Grand Bouddha de Hanoi, đền Quán Thánh) có một chuông chùa và một trống cái, nhưng vẫn chưa có khánh. Một người dân làng Đông du huyện Gia lâm, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh  tên là Nguyễn Huy Bình đã kêu gọi quyên góp tiền bạc cần thiết để đúc một chiếc khánh cung tiến treo trong chùa này.

Những người đã cung tiến gồm:

Lê Văn Ngữ; tổng đốc;
Đỗ Xuân Can (Cẩn?);
Trần Xe Huyen (?);
Lê Văn Phả;
Nguyễn Văn Ngôn;
Lê Từ Hiếu.

Tên những người cũng tiến này được thảo và khắc lên khánh. Khánh làm liên tưởng tới hình awnhr của mặt trăng, của đồi núi; cùng với chuông và trống để tạo thành những vật dụng dùng để báo hiệu, kêu gọi.

Nghe thanh âm trong trẻo từ những chiếc khánh cũng làm tâm trạng đang sầu thảm trở nên tươi vui, kẻ u tối được soi đường mở lối.

Ở An nam, có một vật dụng dùng trang trí với hình dạng như chiếc khánh được gọi là kim khánh (khánh vàng). Kim khánh không giống như huân chương hiệp sỹ ở Âu châu, nó là một đồ trang sức mang tính danh dự mà nhà vua ban thưởng cho đại thân và các sỹ quan, quan chức ngoại bang đang phục vụ cho An nam xứng đáng được ban thưởng. Nó đi kèm với thánh chỉ của nhà vua có kèm phê chuẩn cùng ấn triện của vua hoặc qua tể tướng, hoặc là của nhà cầm quyền.



Thẻ vàng làm kim khánh có kích thước không cố định, tùy thuộc vào phẩm tước và mức độ quan trọng, nhưng không quá 1 cen-ti-mét; ở phía dưới có treo một chùm kết tua bằng lụa đỏ, xanh, vàng. Kim khánh được buộc treo bằng một sợi lụa màu đỏ. Trên mặt khánh có dòng chữ hán viết nằm ngang, xung quanh được trang trí hoa văn. (1)


(1) Kim khánh được làm bằng vàng, được vua ban cho các tướng lĩnh, quan lại phẩm lớn vì những đóng góp đối với triều đại và quốc gia. Dưới triều Gia Long và Minh Mạng, chỉ những thành viên trong hoàng tộc và quan lại có điện hàm đại học sỹ (Tứ trụ) mới được ban thưởng kim khánh. Vua Tự Đức đã thay đổi điều đó vào năm 1873, kim khánh được thưởng cho cả các quan chức cấp cao người Pháp ở Đông dương. Từ triều Hàm Nghi trở về trước Từ triều Hàm Nghi (1884 – 1885) trở về trước, kim khánh chỉ có 2 hạng: đại hạng kim khánh (kim khánh hạng lớn) và kim khánh (kim khánh hạng thường), đều làm bằng vàng 8,5 tuổi nhưng khác nhau về kích thước, trọng lượng và hoa văn trang trí. Sang triều Đồng Khánh (1885 – 1889), kim khánh được phân thành 4 hạng: đại (hạng lớn), trung (hạng vừa), thứ (hạng dưới trung bình) và tiểu (hạng nhỏ). Đến năm 1900, vua Thành Thái (1889 – 1907) quy định kim khánh chỉ có 3 hạng, đều khắc dòng chữ Hán Thành Thái sắc tứ ở mặt trước, nhưng mặt sau thì phân biệt bởi các dòng chữ Hán: Báo nghĩa thù huân (hạng nhất), Gia thiện sinh năng (hạng hai) và Lao năng khả tưởng (hạng ba). Mỗi kim khánh đều có một chùm tua kết bằng các hạt ngọc trai, mã não và cườm nhiều màu nhập từ Ấn Độ. Đặc biệt, kim khánh của triều Khải Định (1916 – 1925) thường có các chữ Hán Khải Định ân tứ hoặc Ân tứ khắc chìm và được khảm ngọc trai trong lòng chữ. Những kim khánh này được đựng trong những chiếc hộp bằng bạc, chính giữa khắc 4 chữ Hán Khải Định niên tạo và có chữ ký nghệ nhân chế tác kim khánh khắc ở phía dưới. Riêng những kim khánh vua ban cho phái nữ thì các hoa văn hình rồng được thay thế bằng hình chim phụng.

Nguồn: Les symboles, les emblèmes et les accessoires du cultes chez les annamites, 1891, trang 138.

Thứ Năm, 26 tháng 7, 2018

Chuông (La cloche) ;

Chuông An nam miệng ít loe, nó gần như là hình trụ; đỉnh chuông tròn và loe ra một chút ở dưới đáy. Phía đỉnh chuông có hai con rồng bằng đồng cuộn vào nhau tạo thành một vòng cong để lấy chỗ treo chuông.

Hình dáng chuông là duy nhất, được làm với nhiều kích thước khác nhau từ những chiếc chuông nhỏ cỡ một nắm tay cho tới hai hay ba mét chiều cao. Không có điểm cố định để gõ chuông, người ta đánh chuông bằng dùi gỗ vào những điểm gò nhô lên khỏi mặt chuông nằm ở phía gần miệng chuông.

Chuông chùa được khắc văn tự lên trên gồm trọng lượng chùa, tên chùa nơi chuông được treo, các chi tiết nguồn gốc xuất xứ, ngày và tên người cung tiến.

Khuôn đúc chuông được làm từ đất trộn với vỏ chấu. Đầu tiên người ta đắp khuôn phía bên trong bằng cách phủ lên một khung trụ đan bằng tre một lớp đất trộn vỏ chấu với hình dạng thể hiện một cách chính xác hình dáng phía bên trong của chuông. Khi mà phần cốt này khô hoàn toàn, ta phủ bên ngoài một lớp đất sét mịn lấy từ sông Hồng được trộn với đất sét và tro bếp, tất cả được nhào trộn thật kỹ; đôi khi được thêm vào giấy dó. Từ phần cốt này một chiều dày tương ứng với độ dày của chuông, trên đấy đắp dương các ký tự, họa tiết mà người ta muốn có trên chuông sau khi đúc xong. Khi mà phần này khô hoàn toàn có độ co đồng đều, người ta bao đất xung quanh nó để tạo khuôn phía bên ngoài.

Khuôn này thường được tách làm hai phần; khi việc tạo khuôn hoàn tất, nó sẽ được để cho khô trong nhiều ngày trời rồi sau đó, phần ma két phía bên trong được lấy ra để nung nóng từng phần của khuôn cốt để làm nóng chúng một chút trước khi rót kim loại vào. Việc chế tạo rất thô sơ nhưng chưa luôn ra được một sản phẩm tinh tế.

Để làm chuông, người ta cho bảy phần đồng vàng và ba phần thiếc. Thói quen cho một phần nhỏ vàng bạc vào để đúc chuông cốt là để tạo cho chuông có thanh âm sắc hơn. Một trong những chiếc chuông lớn nhất quan sát được ở xứ Bắc kỳ là chuông chùa Sinh Từ nằm gần cửa Sơn Tây, Hà Nội với chiều cao 2 mét.

Trong chùa Hoàng Ân nằm ở làng Quảng Bá, gần Hồ Tây, Hà Nội, có một chiếc chuông đáng chú ý được đúc với hình phật xung quanh thân chuông được đúc đồng thời với chuông. Chùa này được xây bởi con gái vua Lê Thần Tông năm 1628.

Cũng có loại chuông được làm bằng sắt hoặc một loại hợp kim có sắt là thành phần chính, được bắt gặp trong một vài tu viện cổ  để phục vụ cho việc hóa mã.


Nguồn: Les symboles, les emblèmes et les accessoires du cultes chez les annamites, 1891, trang 135.

Long đình (Le temple du Dragon) ;

Long đình mà một cái bàn thờ di động, có mái làm theo mái đình người hoa đôi khi treo các chuông, khánh. Long đình được dùng để dâng lễ tỏ lòng thành cùng với xớ viết trong các đoàn rước tới đền, chùa. Nó được khiêng trên vai.

Khi mà các tín đồ muốn vinh danh vị thần nào đó hay muốn cầu xin ngài ân huệ, họ sẽ sắp lên một cái long đình một đỉnh hương, hai ngọn đèn, một bát hương, hoa quả, vàng mã và một cái tráp nhỏ có chứa sớ được viết chữ trên giấy đỏ. Hai hay bốn phu khiêng long đình , đi phía trước có một người mang cồng/khánh cứ chục bước lại gõ một nhịp, các tín hữu phục lễ đi phía sau, thường là áo the màu lam có họa tiết lớn, đầu đội mão, chân đi hài nhung hoặc giấy sơn son có đế giày lớn màu trăng.


Long đình, cũng như kiệu, được đặt trong hậu điện để làm nơi cất giữ các pho tượng thờ quý giá tạc các nhân vật lịch sử như là tượng vua Lý Thánh Tông ở chùa Láng nằm gần Cầu Giấy, Hà Nội hay tượng Đinh Tiên Hoàng ở chùa Trường Yên, nằm gần sông phủ Nho Quan. Bởi vậy, nó được trạm trổ đục đẽo và sơn son thiếp vàng đặc biệt cầu kỳ; đặt lên trên một khối gạch xây đôi khi rất cao, được chướng rủ màn che bởi hai ba lớp lụa màu vàng hay đỏ.

Cũng có dạng Long đình có cửa xung quanh nhưng luôn đóng chặt; nó không phải để khiêng đi trong các lễ mà luôn tọa ở trong đền, chùa; bên trong đặt thần chủ. Phần lớn dạng này, chúng ta bắt gặp trong các ngôi đền đạo giáo, trong đình thờ thần hoàng làng hay đền thờ Khổng tử.


Nguồn: Les symboles, les emblèmes et les accessoires du cultes chez les annamites, 1891, trang 133.

Thứ Năm, 19 tháng 7, 2018

Ngựa, Voi ( Chevaux et Éléphant);

Trong các ngôi đền, miếu thờ thần linh hay thần hoàng, chúng ta luôn thấy xuất hiện các tượng con ngựa hay con voi.

Ngựa, đi theo cặp,  đôi khi có độ lớn như ngựa thật, được làm bằng gỗ đặt trên một cái bệ nhỏ có bánh xe. Nó được đeo bộ cương cùng các họa tiết trang trí bằng giấy sơn và thiếp vàng hoặc bằng vải thêu họa tiết phụ thuộc vào điều kiện của đình, đền.

Người ta bày bố ngựa trong khuôn viên của đình, đền, ở mỗi bên cửa ra vào. Chúng được rước phía trước kiệu thần trong đoàn rước vào mỗi dịp lễ.

Ngựa bản thân không phải là mục tiêu cho bất kỳ hình thức thờ phượng nào trong đình, đền. Đó là một điều khá dung tục cho sự xuất hiện chúng ở nơi thờ phượng như sau: con người thờ thần linh và cao hơn cả là Ngọc hoàng, họ muốn cung tiến một vật phẩm xứng đáng và có thể giúp ngài di chuyển trong những chuyến đi dài nhằm được ban chút ân huệ. Và ngựa như một loài có phẩm chất xứng đáng với việc đó.







Trong một ngôi đền dày truyền thống lịch sử nằm ở Đình Bảng, Phủ Từ Sơn, để tưởng nhớ các vua nhà Lý mà lăng mộ của các ngài nằm ở khu rừng bên cạnh, người ta đã dựng một bầy ngựa trong đó mỗi vị vua được tượng trưng bởi  một con ngựa bằng gỗ có trang trí yên giáp kỹ lưỡng, được một người chiến binh bằng gỗ sơn thiếp nắm dây cương, tất cả đều làm theo kích thước người thực. Các kiệu thắng trận của vua được để ở khu vực khác.

Các vị bồ tát tôn kính với loài ngựa trắng để tưởng nhớ về việc những thầy chùa người Trung quốc dưới triều vua Hiao Minh Ti đi lấy kinh ở bên Ấn độ, quay trở về với nhiều cuốn kinh Phật trên lưng một con ngựa trắng.

Vào thời đó, người ta đã xây dựng vô số kể ở trên đất Trung hoa những thiền viện lấy tên là Thiền viện Bạch mã (Monastères du Cheval Blanc). Vào thế kỷ thứ IX, khi mà nước Nam vẫn còn bị phương Bắc đô họ, hoàng đế Trung hoa bị choáng ngợp trước số lượng những tu viện tồn tại dưới triều đại của mình đã yêu cầu lập biểu thống kê. Số liệu được ghi trong sách sử nhà Đường có 4,660 ngôi đền và thiền viện hoạt động chính thức và 40,000 cơ sở khác hoạt động tự phát.

Số lượng tăng ni Phật tử là 260,500 và 150,000 người làm việc trong các tăng viện.

Ở Hà Nội có ngôi đền Bạch Mã nằm trên phố Mã mây. Đây là một trong những ngôi đền cổ nhất của thành phố. Nó được xây dựng bởi người An nam để tưởng nhớ tướng người tàu tên Cao Biền với tiếng thơm về tài và đức của ông ở xứ này.

Cao Biền được đặt biệt danh là Bạch Mã Vương bởi theo huyền sử kể lại, giữa một đồng lúa nọ có một con ngựa trắng xuất hiện một cách thần tiên và chỉ cho ông rõ về địa đồ hào lũy để đắp thành ngoài của Hà Nội, thứ mà ngày nay vẫn còn tồn tại với tên Thành Đại La.

Đền Bạch mã đầu tiên được dựng ở làng Long Đỗ; sau đó được di dời đến địa điểm như hiện nay khi mà triều Lý lên ngôi và dời đô về Thăng Long năm 1010 xây dựng thành Đại la trên vị trí là làng Long Đỗ.

Voi là một biểu tượng của quyền lực tối cao ở Bắc kỳ. Nó được thể hiện nhiều ở trên những bức phù điêu hay các bức trạm nổi phía bên ngoài đền thờ vua hoặc các vị chức sắc thuộc dòng dõi hoàng gia. Voi luôn có mặt ở mỗi bên và phía bên ngoài của hàng hiên chính lối vào đền.

Trong khuôn viên chùa, voi thường thấy được tạc bằng đá hoặc bằng gạch đá đắp nổi; một vài ngôi chùa có tượng voi bằng gỗ được đặt lên trên những bánh xe, cùng với tượng ngựa, được kéo đi trong các đám rước với lọng che đi cùng.

Không xa con đường cái quan, trong những khu vườn ở ngoại ô Hà Nội có một ngôi chùa tên là chùa Hai bà được dựng nên để tưởng nhớ về Hai bà Trưng, người nữ anh hùng dân tộc cầm vũ khí mộ binh đứng lên đánh đuổi quân phương bắc vào thế kỷ I.

Hai người nữ anh hùng này là chị em gái, thua trong một trận đánh lớn, đã gieo mình theo dòng sông Đáy ( Hát giang) trên địa phận Sơn tây để tự tuẫn, nước Nam một lần nữa bị đặt dưới ách thống trị của quân phương Bắc. Hai bà cưỡi voi đánh giặc. Bởi thế, trong ngôi đền thờ hai bà ở Hà Nội, có tượng hai con voi nằm ở thế phòng thủ tự nhiên như hai con voi đã từng cùng hai bà Trưng tham gia đánh giặc.

Voi và ngựa làm bằng giấy được đốt cùng với áo, mão, hài, thuyền, vật dụng, nán vàng, nén bạc cho người đã mất để cầu xin ân ban. Chúng luôn được làm bằng giấy, được tin là cần thiết và hữu dụng đối với người đã mất, với thần thánh và thậm chí với cả quỷ dữ.                            
Nguồn: Les symboles, les emblèmes et les accessoires du cultes chez les annamites, 1891, trang 127./

Thứ Ba, 17 tháng 7, 2018

Kiệu (Le char de l'esprit);

Kiệu là trung tâm của đoàn rước, vừa có hình dáng của một chiếc kiệu, vừa có dáng vóc của một ngôi chùa nhỏ. Để làm kiệu cần kỹ thuật tài tình, tinh tế và nhiều kinh nghiệm trong việc trạm trổ, đục đẽo tạo thành những vành đăng-ten bởi các hình khối trạm trổ sơn son thiếp vàng. Hiện này mo-tif của kiệu đều theo kiểu giống nhau là những con rồng uốn lượn giữa những đám mây.

Kiệu được gác lên hai đòn cáng có bốn đầu gác lên hai thanh đòn ngang khác. Tùy theo việc kiệu lớn nhỏ tạo sự khác biệt về trọng lượng kiệu mà người ta sẽ thêm vào hai thanh đòn ngang này những cách bài trí để có thể vác trên vai bởi bốn, tám hay 16 người đàn ông. (1)

Rất ít khi có người ngồi ở trên kiệu, thông thường trên kiệu sẽ đặt mộc chủ hoặc là một hình nhân khoác lụa, nhiễu, đội mội mão, chân đi hài. Trong các đoàn rước, các bà các cô đi phía trước kiệu thần, đôi khi đi phía sau; nối tiếp sau đó là cánh đàn ông.

Nếu kiệu thần dùng để rước một vị thần là nữ giới, kiệu sẽ được khiêng bởi nữ mặc y phục áo lễ màu đỏ, đầu đội khăn the xanh. Trang phục, đồ lễ,... không phải lúc nào cũng giống nhau trong các đám rước mà có sự khác biệt lớn theo mô-tif, mục đích, tầm quan trọng của đám rước và đặc biệt là sự bảo trợ của các nhà hảo tâm.

Ta chú ý tới các bước di chuyển kỳ quái của người khiêng kiệu trong đám rước. Họ bước đi theo lối nhằm làm cho người xem tin rằng con đường rước kiệu qua có nhiều những vong hồn xấu muốn cản bước chân của họ. Thế nên, lúc thì thình lình bước lên rồi xoay rồi lùi lại, lúc thì uốn cong người như thể là sắp ngã, tưởng như bị bẻ gập bởi sức nặng mà họ khiêng trên vai. Người ta cũng đánh cồng theo đoàn rước để xua đuổi vong hồn đồng thời đốt rất nhiều hương.

(1) Phổ biến nhất là kiệu bốn hoặc tám người khiêng. Khi là bốn người khiêng, ta gọi đó là kiệu song hàng. Khi là tám người khiêng, ta gọi kiệu bát cống.

Nguồn: Les symboles, les emblèmes et les accessoires du cultes chez les annamites, 1891, trang 124./

Thứ Hai, 16 tháng 7, 2018

Rồng/Long (Le dragon),

Lịch sử thiên nhiên Trung hoa (Peun ts'ao Kangmou), cuốn sách viết trên góc nhìn y học, xếp trong nhóm cùng dưới tên gọi chung là Rồng gồm có 5 chủng loài bò sát lớn; xương cốt của chúng còn nằm rải rác rất nhiều trên lãnh thổ Trung hoa. Tuy nhiên, những xương cốt này lại thuộc về loài cá sấu châu Mỹ vốn đã tuyệt chủng ở châu lục này từ lâu. Khi lui về thời cổ đại để xem xét loài vật này trong tín ngưỡng niềm tin của người Trung hoa và hơn hết là những huyền thoại, truyền thuyết mà trong đó loài rồng là nhân vật trọng yếu của nhiều tộc người cổ đại khác, như là người Indou, người Ai cập, người Ba tư và người Do thái,  nó gợi cho chúng ta liên tưởng về một loài thằn lằn lớn tiến hóa theo thời gian kiến tạo địa chất.

Theo thần thoại phật giáo, trong muôn loài thì rồng đứng trên tất cả, thậm chỉ là loài người. Nó được trao cho công lý, lẽ phải. Vua của loài rồng, Long Vương,  được gọi là Hộ pháp của Đức phật (protecteurs de la loi de Bouddha). 

'Dưới đáy biển có 177 vị Long vương trong đó quyền lực nhất là vị số 19. Người hoa gọi vị Long Vương số 19 là So Kie Lo, phiên âm của từ tiếng Phạn Sagara. Đây chính là người rải mây ra bầu trời.

'Rồng có thể được sinh ra theo bốn cách: từ một quả trứng, từ tử cung, bởi độ ẩm hay do biến hóa từ một cây cổ thụ mà người ta gọi là Tcha Che Ma Li trong tiếng Hoa.  Loài rồng có thể tự biến hóa tùy thích, trừ 5 dịp sau: khi sinh, khi chết, khi đang đùa giỡn, khi tức giận và khi buồn ngủ.

'Rồng là đích nhắm của ba dòng khí: ngọn lửa đang cháy và cát nóng làm chúng khó chịu; những cơn bão như muốn lột da chúng, sự phàm ăn của Garouda xuất hiện nởi ở của rồng và ăn thịt những con rồng con.'

Theo biên niên sử Trung quốc, trong hệ thống hành chính được thiết lập ở Trung quốc 3,468 năm về trước, các quan đứng đầu được gọi là những con rồng. Người phụ trách việc dạy văn chương được gọi là Phi long (dragon volant). Người phụ trách việc biên soạn lịch được gọi là Long ẩn (dragon qui se cache). Người phụ trách các hạng mục xây dựng gọi là Rồng bất biến (?)(dragon immuable). Rồng bảo hộ/ Hộ Long (dragon protecteur)  hỗ trợ cho các vấn đề liên quan thiên tai (misère public). Địa long (dragon terrestre) phụ trách bảo vệ biên cương. Thủy long (dragon des eaux) thì thiết lập hệ thống đê hiều dẫn và thoát nước mùa lụt để cho ruộng vườn sinh trưởng.

Truyền thuyết kể rằng, Phụ Hi có mình rồng và đầu của một con bò. Ông trở thành nhà hiền triết cũng như người cai trị đầu tiên của người hoa. Ông đã sáng tạo ra chữ viết, nhạc cụ, vòng lục thập hoa giáp (cycle de 60 ans) mà ngày nay người An nam lẫn người Hoa còn sử dụng để tính thời gian, cái cày/ bừa. Ông cũng dạy cách tạo muối từ nước biển, viết binh thư, và sách y khoa chữa bệnh,...

Người An nam nói rằng rồng không có tai mà chúng nghe bằng cặp sừng. Họ tin rằng loài rùa quoa ngàn năm sinh sống, có thể biến đổi thành rồng.

Ở Âu châu, rồng là hiện thân của xấu xa, của quái vật. Điều đó hoàn toàn trái ngược với sự tôn kính, sự súng bái ở nơi đây. Người ta nói: "Diện kiến long nhan" (Contempler la face du dragon) để ám chỉ việc gặp vua.

Một số loài cá cũng có thể hóa rồng, hay nói chính xác hơn, rồng thường có dạng nguyên thủy từ loài cá. Để được như vậy, các đám mây phải xà xuống sát mặt nước nơi con cá đang bơi.

..........................................
Si vous reconnaissez en vous quelque valeur
N'ayez nulle impatience, votre tour viendre vite,
Apportant la nobless, et la gloire et les biens.
Le dragon, le posson, ont la même origine,
Mais combien pour chacun la destinée diffère!
Le poisson ne peut vivre hors de son élément,
Mais qu'un légér nuage s'abaisse vers le sol
Et l'on voit le dragon s'élancer dans les airs! (1)
(Chanson annamite) (2)

Dịch nôm:

Nếu bạn biết bạn có tài,
Chớ nóng vội, vận bạn sẽ tới thật nhanh,
Mang theo phú quý, vinh hoa và lộc lá.
Loài rồng, loài cá có chung một gốc
Nhưng số phần cách biệt ra sao cho mỗi loài
Cá chẳng thể sống trên cạn
Nhưng chỉ một đám mây nhẹ xà xuống đất thôi
Rồi xem thấy con rồng uốn lượn trên không trung!

Rồng là biểu tượng của quyền lực và sự quý tộc. Người ta thêu hình rồng lên áo của quan lại phẩm cao cũng như người Pháp thêy hình hoa ly cùng con ong lên áo khoác của vua vậy.

Trong một số ngôi chùa hoàng gia, người ta cũng thể hiện những con rồng với bàn tay con người với những ngón tay quá khổ.
Có hai dạng rồng được sử dụng trang trí mang tính biểu trưng: Mãng và Long.

Mãng là một con rắn lớn sống trên cạn. Long là loài thủy sinh hoặc lưỡng cư. Long bào (tunique à dragons) để nói đến áo vua.

Hoàng đế luôn mặc trang phục được thêu rồng có năm vuốt. Con trai của vua và năm vị hoàng thân đứng đầu được mặc áo phục có thêu Mãng và Long. Đồ án được sắp xếp như sau: trước ngực thêu một con rồng, một con rồng khác ở phía sau lưng, hai con rồng hai bên vai, mãng phủ đầy vạt dưới cả hai phía trước và sau áo, tuy nhiên những con rồng này chỉ có bốn vuốt.

Ở Trung quốc, đôi khi hoàng đế trao thưởng như một lễ phẩm cao quý cho quan lại hoặc người có công trạng lớn trong nước quyền được mặc áo có thêu hình rồng. Những chiếc áo choàng này có màu vàng.

Trước năm 1293 khi vua Trần Anh Tông lên ngôi, các vua nước Nam đều xăm hình con rồng lên đùi (3) . Vị hoàng tử trẻ tuổi Anh Tông không thích phong tục này. Khi mà vua cha muốn Anh Tông tuân theo phong tục này, ông đã tìm cách trốn tránh. Sau này khi kế nghiệp lên ngôi vua, Anh Tông đã loại bỏ tục này một cách thành công.

Người An nam, thể hiện hình ảnh loài rồng để trang trí trên nhiều vật dụng trang trí khác nhau, đều tuân theo một nguyên tắc là loài rồng là vua của mây trời, là người tạo mưa. Vì vậy, thể hiện hình ảnh loài rồng ở mọi nơi là bắt buộc đề cầu mưa xuống. "Mưa đi theo rồng" , người Hoa thường nói như vậy nên vào mùa khô, họ đi nối nhau trên đường phố theo hình con rồng. Vào thời Khổng tử, vua nước Chu đã sơn vẽ rồng lên tường của tất cả các bức tường nhà, lên bát đĩa, chai lọ và nhờ vậy, Vương Trung nói rằng, mưa không bao giờ vắng mặt ở lãnh thổ nước này. Không chỉ được xem như là nhân tổ không thể thiếu để tạo mưa, rồng còn là biểu tượng của sự tươi tốt và màu mỡ của đất đai. Nó làm dịu bớt cái nóng nực mùa hè miền nhiệt đới và dự báo bệnh dịch.

Vào năm 1886, trong biểu kiến nghị của tướng Varnet, thống sứ Bắc Kỳ, triều đình Huế đã thông qua về Đại Nam Long tinh ( Ordre du Dragon) (4) với trích phần nội dung được dịch Nôm như sau: (5 - Văn bản đầy đủ tiếng Pháp được chép lại ở dưới - ND)


Phần I.
Điều 1. - Đại Nam Long tinh được lập ra để thưởng cho người có thành tích về mặt dân sinh hoặc quân sự.
Điều 2. - Hoàng Đế là bậc tối thượng và chủ nhân của long tinh này.
Điều 3. - Những người được trao thưởng Đại Nam Long tinh được chia thành năm bậc:
Hiệp sỹ;
Sỹ quan; 
Chỉ huy;
Đại sỹ quan; (?)
Tổng chỉ huy;(6)
Điều 4. - Đại Nam Long tinh được trang trí thể hiện dưới dạng một ngôi sao 8 cánh bằng kim loại, có các nón nhọn trên cánh; một con rồng bằng kim loại, được khảm men màu lục, có vuốt túm lấy vương miện theo kiểu châu Âu.
Phần chính của long tinh hình ô-van có nền khảm men màu lam và khắc nổi bằng vàng bốn chữ Đồng Khánh Hoàng Đế theo lối chữ triện cùng bốn mặt trời xung quanh đang tỏa sáng.
Đường vành của hình ô-van được khảm men đỏ bọc vàng.
Điều 5. -  Kim loại được sử dụng là bạc dành cho hiệp sỹ, là vàng cho  sỹ quan, chỉ huy, đại sỹ quan, tổng chỉ huy.
Đường kính 40mm cho hiệp sỹ và sỹ quan; 60mm cho chỉ huy.
Điều 6. - Long tinh dành cho quan văn lẫn quan võ đều giống nhau.
Điều 7. - Ru-băng được gắn vào Long tinh là màu xanh ánh bạc có viền màu cam cho quan văn. Màu trắng ánh bạc có viền màu cam cho quan võ.
Ru-băng bề ngang 38mm, viền bo màu cam rộng 7mm phải trái mỗi bề.

Phần II.
Điều 8. - Hiệp sỹ đeo Long tinh lên ngực trái bởi sợi ruy-băng, không có bông hoa hồng nhỏ.
Sỹ quan đeo tương tự, nhưng có một bông hoa hồng nhỏ.
Chỉ huy đeo trên cổ như dây chuyền bởi một sợi ru-băng tương tự nhưng bề ngang lớn hơn ru-băng của hiệp sỹ và quan chức.
Đại sỹ quan đeo bên ngực phải một huân chương ngôi sao tám cánh bằng bạc được trạm đá quý, đường kính 90mm. Phần trung tâm cũng được trang trí bằng bạc trạm đá quý.
Tổng chỉ huy đeo đai ruy-băng chéo kéo từ vai phải xuống, ruy-băng bản lớn màu lục ánh bạc viền màu cam cho quan văn và màu trắng ánh bạc viền màu cam cho quan võ; ở cuối của ruy-băng được treo một huân chương giống như cái dành cho sỹ quan nhưng với đường kính 70mm. Hơn nữa, tổng chỉ huy còn đeo bên ngực trái một Long tinh giống cái của đại sỹ quan.
Hoàng đế là người duy nhất có quyền được đeo Long tinh dành cho hiệp sỹ đồng thời Long tinh dành cho tổng chỉ huy theo ý thích.

Phần III.
Điều 9. - Đại Nam Long tinh được trao thưởng bởi Hoàng đế.
Các bộ trưởng đề xuất danh sách ứng cử trao thưởng.
Điều 10. -  Giấy chứng nhận có con dấu của Hoàng đế cùng với chữ ký xác nhận của Thượng thư bộ lễ sẽ được trao kèm cho người nhận được Đại Nam Long tinh.
Điều 11. - Thượng thư bộ lễ có trách nhiệm phụ trách về các đề xuất cũng như soạn giấy chứng nhận.
Bộ lễ cũng phụ trách kiểm soát Đại Nam Long tinh viện.

Soạn ở Hoàng thành Huế, ngày 9 tháng 2 năm thiên nguyên Đồng Khánh (14 tháng ba 1886).

Đối với người An nam, các từ Hiệp sỹ, Sỹ quan, Chỉ huy,... không có ý nghĩa gì nhiều mà thay vào đó là Đệ nhất hạng, Đệ nhị hạng, Đệ tam hạng,... trong đó Đệ nhất hạng tương ứng với Tổng chỉ Huy; kèm theo đó là phẩm văn hay võ, như sau:

Cho quan văn:
Đệ nhất hạng: Khôi kỳ tinh long (Perfection imcomparable).
Đệ nhị hạng: Chương hiền long tinh (Sagesse éclatante).
Đệ tam hạng: Biểu đức long tinh (Vertu manifeste).
Đệ tứ hạng: Minh nghĩa long tinh (Inlégrité brillante).
Đệ ngũ hạng: Gia thiện long tinh (Bonté digne de récompense).

Cho quan võ:
Đệ nhất hạng: Trác dị long tinh (Mérite suprême).
Đệ nhị hạng: Thù huân long tinh (Patriotisme digne de récompense).
Đệ tam hạng: Tinh năng long tinh (Puissance manifeste).
Đệ tứ hạng: Tưởng trung long tinh (Fidélité d'encouragement).
Đệ ngũ hạng: Khuyến công long tinh (Mérite digne de récompense).



(1) G.Dumoutier, Sách Les chants et les traditions populaires chez les Annamites. NXB Leroux, Paris, 1890.

(2) Lời bài hát tiếng Việt, do không tìm được bản gốc tiếng Việt nên mình để nguyên theo sách và có dịch nghĩa chay.

(3) Trong cuốn Đại Việt sử ký toàn thư có viết khá rõ về nguồn gốc của các hình xăm ở nước Nam như sau: người giao Chỉ, sống ở vùng đồng bằng và các cửa sông, thường xuyên bị tấn côn bởi loài rắn, cá sấu cùng một số loài thủy quái khác; họ than phiền với vua, người vốn mang trong mình dòng máu loài rồng; vua kêu người dân tự xăm lên thân mình hình ảnh con rồng và từ đó dân sinh sống yên ổn dù đánh bắt ở vùng nước ngọt hay nước mặn.

(4) ND - Đại Nam Long tinh (大南龍星), hay Nam Việt Long bội tinh, còn được gọi theo tiếng Pháp: L'Ordre du Dragon d'Annam hay L'Ordre du Dragon Vert) là một cơ chế phong thường cho triều thần nhà Nguyễn và người Pháp tại Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Đây là một sự chắp ghép thể thức phong thưởng Bắc đẩu bội tinh của Pháp với điển lệ Hoàng triều nhà Nguyễn do chính phủ bải hộ đề ra dưới triều vua Đồng Khánh. Các cá nhân được phong thưởng hợp thành Đại Nam Long tinh viện (ch Nho: 大南龍星院) tương tự như Légion d'honneur của Pháp.


Theo điển lệ nhà Nguyễn, các quan lại có công, được triều đình ban thưởng kim khánh hoặc kim tiền để ghi nhận. Sau khi tước bỏ chủ quyền của triều đình Đại Nam bằng Hòa ước Giáp Thân (1884), Bộ trưởng Hải quân Pháp Alexandre Peyron và Đặc sứ Pháp Jules Patenôtre đã thiết kế ra một loại huân chương dành tặng thưởng cho các viên chức có công với thuộc địa mới. Loại huân chương này được gọi là "ordre impérial du Dragon d'Annam", phỏng theo cơ chế của Bắc đẩu bội tinh. Tuy nhiên, mãi sau khi đưa vua Đồng Khánh lên ngôi, chính quyền bảo hộ Bắc và Trung kỳ mới chính thức đặt ra cơ chế bội tinh này ngày 14 tháng 3 năm 1886, với lý do để đánh dấu sự hợp tác giữa triều đình Huế và nước Pháp, hay đúng ra sự can thiệp trực tiếp của chính phủ Bảo hộ vào nội bộ triều chính nhà Nguyễn. Theo mốc thời gian thì cơ chế bội tinh này khai sinh 6 tháng sau khi vua Đồng Khánh được tấn phong hoàng đế dưới sự giám sát của người Pháp. Triều đình Huế sau đó buộc phải chuẩn định cơ chế bội tinh này với vài sửa đổi nhỏ. Về danh nghĩa, bội tinh do toàn quyền Hoàng đế ban cấp.

Mười năm sau, Đại Nam Long tinh được chính phủ Pháp thâu nạp là một trong bảy loại huân chương của thuộc địa. Vì vậy, Đại Nam Long tinh còn được trao tặng cho các quan viên nước ngoài theo đề nghị của chính phủ bảo hộ. Giấy khâm cấp cũng được bổ sung thêm phần tiếng Pháp bên cạnh phần chữ Hán.

Hệ thống cấp bậc của Đại Nam Long tinh mô phỏng theo Bắc đẩu bội tinh của Pháp với 5 cấp bậc, nhưng phân làm 2 ban văn võ với danh xưng riêng biệt

1. Đệ nhất hạng
Khôi kỳ long tinh (văn) Trác dị long tinh (võ)
2. Đệ nhị hạng
Chương hiền long tinh (văn) Thù huân long tinh (võ)
3. Đệ tam hạng
Biểu đức long tinh (văn) Tinh năng long tinh (võ)
4. Đệ tứ hạng
Minh nghĩa long tinh (văn) Tưởng trung long tinh (võ)
5. Đệ ngũ hạng
Gia thiện long tinh (văn) Khuyến công long tinh (văn)

Phác thảo ban đầu của Đại Nam Long tinh do chính quyền bảo hộ Bắc Trung kỳ đặt ra có hình vuông, sau được triều đình Huế đổi lại thành hình bầu dục, ở diềm có tia tỏa ra hơi giống hình ngôi sao 8 cánh. Hạng 1 và 2 thì có 16 cánh. Phía trên bài sao, khắc mũ miện hoàng đế (kiểu châu Âu) trang sức hình rồng sắc xanh, có chân cắm ở trên mũ, làm chỗ đeo ngọc. Trong lòng hình bầu dục, khảm bằng men xanh và khắc nổi bốn chữ "Đồng Khánh hoàng đế" (同慶皇帝) theo lối chữ triện . Ở bốn bên, khắc nổi hình mặt trời và mây. Quanh mé ngoài hình bầu dục có khảm một đường men màu đỏ; bên mé trong, mé ngoài đường men có viền bằng 2 sợi chỉ vàng.
Trừ Long tinh hạng 5 được làm bằng bạc, các hạng 4, 3, 2, 1 đều làm bằng vàng. Các hạng 4, 5 có đường kính rộng 4 cm; từ hạng 3, đường kính là 6 cm.

Kèm theo bội tinh còn có văn bằng, gọi là giấy khâm cấp. Mẫu giấy khâm cấp, mặt trên vẽ rồng, khắc 4 chữ "Đồng Khánh hoàng đế", khắc ngang 5 chữ "Đại Nam Long tinh Viện" bằng chữ Hán; hai bên vẽ nghi trượng; mặt dưới vẽ hình bội tinh.

Theo quy định, Long tinh 2 hạng 4, 5, đeo bên ngực trái; khác nhau ở hạng 4 có hình hoa tường vi, hạng 5 không có. Hạng 3, dây đeo to hơn, đeo ở cổ, rủ xuống trước ngực. Hạng 2, đeo bài tròn rộng 9 cm, có 8 cánh bằng bạc, giữa khảm ngọc thạch hình bầu dục như hình long tinh, đeo bên ngực phải; đeo thêm 1 Long tinh hạng 4 bên ngực trái. Riêng hạng 1, đeo băng Long tinh trắng có vân, viền cam (vàng sẫm) đối với Võ ban; xanh lục có vân viền cam (vàng sẫm) đối với Văn ban. Kích thước băng đeo giữa rộng 3,3 cm, 2 bên rộng 0,7 cm. Băng đeo từ vai phải xuống nách trái. Long tinh rộng 0,7 cm, đeo chỗ 2 dây băng giáp nhau dưới cánh tay bên trái; ngực trái đeo bài tròn giống hạng 2. Sau năm 1896, băng đeo đổi thành đỏ viền vàng ban cho các quan lại thuộc Nam triều; băng xanh lục viền cam ban cho các quan viên người Pháp.

Chỉ riêng Hoàng đế được đeo Long tinh đệ nhất hạng, kèm theo 1 Long tinh đệ ngũ hạng; và được đeo tùy ý, miễn là dễ nhìn.

Khi sang nhậm chức Tổng sứ Bắc Trung kỳ (résident général de l'Annam et du Tonkin), Paul Bert được vua Đồng Khánh ban thưởng Đại Nam Long tin đệ nhất hạng. Sách Đại Nam thực lục cũng chép, vào cuối năm 1887, theo đề nghị của chính phủ bảo hộ Pháp, cấp Đại Nam Long tinh cho 191 quan viên người Pháp (hạng nhì 14 người; hạng ba 14 người; hạng tư 52 người, hạng năm 111 người) và 16 quan lại người Việt (hạng nhì: Nguyễn Hữu Độ; hạng ba: Nguyễn Trọng Hợp và Đoàn Văn Hội; hạng tư: Nguyễn Thuật, Hoàng Hữu Thường, Tôn Thất Phiên, Lê Hữu Thường, Nguyễn Chính, Lê Đĩnh, Vũ Văn Báo, Nguyễn Trần Cáp, Nguyễn Khắc Vỹ, Nguyễn Xuân Duẩn, Hồ Lệ, Hồ Đệ và Phạm Hữu Dụng). Vua Đồng Khánh thêm 3 người là Nguyễn Thân, Trương Như Cương, Tôn Thất Thế, đổi cấp 2 người Hồ Đệ và Phạm Hữu Dụng thành Đào Tiến và Ưng Quyến.


Đại Nam Long tinh Viện bị giải thể sau khi chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập và hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Năm 1950, khi ba nước Đông Dương đổi quy chế thành ba quốc gia trong Liên hiệp Pháp thì danh hiệu "huân chương thuộc địa" cũng lỗi thời. Tuy nhiên, quốc trưởng Bảo Đại vẫn tái lập Đại Nam Long tinh Viện để phong tặng cho các quan lại cũ trên danh nghĩa Hoàng đế. Nhưng chỉ 5 năm sau, năm 1955, quốc trưởng Bảo Đại bị thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất nên Đại Nam Long tinh Viện cũng ngưng hoạt động. Tuy vậy, rất nhiều cơ chế của Đại Nam Long tinh về sau được áp dụng vào Bảo quốc Huân chương. 
(nguồn: Việt Nam phong hóa)
(5)
            LE SOUVERAIN DE L'EMPIRE DU SUD, OBÉISSANT AUX ORDRES DU CIEL,

Et voulant reconnaitre les services rendus à sa Personne et à l'Empire, a décidé d'instituer un Ordre honorifique avec insignes, destinés à témoigner publiquement de la distinction dont sont l'objet les personnes auxquelles l'ordre a été conféré.


Sur la proposition du Conseil secret de l'Empire.

SA MAJESTÉ DÉCRÈTE:

Titre I er.

Article premier. - L'Ordre Impérial du Dragon de l'Annam est institué pour récompenser les services civils et militaires
Art.2. - Sa Majesté L'Empereur est chef souverain et grand-maitre de l'Ordre.
Art.3. - Les membres de l'Ordre sont divisés en cinq classes:
Chevaliers;
Officiers;
Commandeurs;
Grands-Officiers;
Grands-Croix.
Art.4. - La décoration du Dragon de l'Annam est une étoile en métal à huit branches avec pyramide du même métal en relief, surmontée d'une couronne impériale en métal; un dragon en métal, émaillé vert, prend le couronne en forrmant anneau.
Au centre, un médaillon ovale, à fond émail bleu de ciel, porte en relief qutre caractères en or : Đồng-Khánh Hoàng Đế et quatre soleils en or, représentant des soleils héraldiques annamites, rauonnants.
Le listel du médaillon est en émail rouge serti d'or.
Art.5. - La décoration est en argent pour les chevaliers, et or pour des les officiers, commandeurs, grands-officiers et grands-croix.
Le diamêtre est de 40 millimètres pour les chevaliers et officiers, et 60 millimètres pour les commandeurs.
Art.6.- La décoration est la même pour les membres civils que pour les membres militaires de l'Ordre.
Art.7. -Le ruban qui attache la décoration est moiré vert à bords orangés pour les membres civils.
Il est moiré blanc à bords orangés pour les membres militaires.
Le ruban a 38 milimètres de large, les bords orangés occupent 7 millimètres de chaque côté.


Titre II.
Art.8. - Les chevaliers portent la décoration attachée par le ruban, sans rosette, sur le côté gauche de la poitrine.
Les officiers la portent de la même manière, mais avec une rosette.
Les commandeurs portent la décoration en sautoir, attaché par un ruban de même nature, mais plus large que celui des officieirs et chevaliers.
Les grands-officiers portent sur le côté droit de la poitrine une plaque à huit rayons doubles, diamantée, tout argent, du diamètr de 90 millimètres. Le mesdaillon du centre est celui de la décoration mais tout argent diamanté.
Ils portent en outre la croix d'officier. Les grands-croix portent en écharpe, passant sur l'épaule droite, un large ruban moiré vert, à bords orangés pour les membres civils, et moiré blancs à bords orangés pour les membres militaires; au bas du ruban est attachée une décoration semblable à celle des commandeurs mais ayant 70 millimètres de diamètre.
De plus, ils portent, sur le côté gauche de la poitrine, une plaque semblable à celle des grands-officiers.
A l'Empereur seul est réservé le droit de porter la croix de chevalier en même temps que les insignes de grand-croix que Sa Majesté portera à sa convenance.


Titre III.
Art.9. - L'Ordre Impérial du Dragon de l'Annam est conféré par Sa Majesté l'Empereur.
Les propositions sont présentées à Sa Majesté par les ministres.
Art.10. - Des brevets revêtus du cachet de Sa Majesté l'Empereur et contresignés par le Ministre des Rites seront délivrés à tous les membres de l'Ordre Impérial du Dragon de l'Annam.
Art.11. - Le ministre des Rites est chargé de l'expédition des lettre d'avis et brevets.
Il tient la contrôle des membres de l'Ordre.

Fait au Palais Impérial à Huế, le 9 du 2e mois de la première année de Đồng-Khánh ( 14 mars 1886).

                    Par l'Empereur.
                    LE MINISTRE
  PRÉSIDENT DU CONSEIL SECRET.


                                                                              Vu: pour l'exécution,
LE MINISTRE DES RITES/
(6) Grands-croix -ND - mình chưa biết dịch là gì. Chức vụ Tổng chỉ huy (grand chancelier) được lựa chọn từ những người có bắc đẩu bội tinh hạng một (hay ở cấp bập grands-croix).
Nguồn: Les symboles, les emblèmes et les accessoires du cultes chez les annamites, 1891, trang 36./

Đại Nam Long tinh dành cho Hiệp sỹ

Đại Nam Long tinh dành cho sỹ quan

Cách đeo Bắc đẩu bội tinh của người Pháp