Long Hổ tranh đấu là một khung cảnh mang tính biểu trưng xuất phát từ Trung hoa mà người An nam thường sử dụng để thêu lên những bức chướng hay vẽ trên các bức họa. Chúng ta cũng thấy khung cảnh này một cách khá thường xuyên trên những bức vách phía trong các ngôi chùa hay trên tấm bình phong khi bước qua hai cột trụ lớn ở đình đền.
Một văn bản được chép bằng tiếng Hán về chủ đề này mà tác giả là người An nam viết lại các nhân vật trên tinh thần như trong phiên bản của người Hoa nhưng với bối cảnh là ở Hải Dương, Bắc Kỳ. Bản dịch như sau:
Long tranh Hổ đấu
Núi Phượng hoàng thuộc huyện Chí Linh (1) là vùng đất linh thiêng của tỉnh Hải Dương.
Ở núi này có một cái hang gọi là hang Hữu Lân (Hưu-Lan) mà chưa một ai đi hết vì nơi đó hoang dã và khô cằn.
Dưới thời nhà Hồ, một người đàn ông tên là Nguyen chạy trốn quân nhà Minh đã lánh nạn ở trong hang này mà trú lại tu đạo Lao-Teu(2).Kiêng tất cả những đồ ăn rắn, chỉ dùng một hay hai chén cháo loãng mỗi ngày, anh ta sống trong hang, học hỏi không ngừng từ những điều kỳ lạ nhất nơi đây và từ đó ngộ được sức mạnh để thống lĩnh các loài yêu ma cũng như muông thú.
Một ngày trong khi đi dạo không xa hang trú ẩn, anh ta bắt gặp trên ngọn núi có một con rồng màu vàng đang vờn chơi một viên ngọc lớn với vẻ đầy thích thú. Một lát sau đó xuất hiện một con hổ trắng bước tới sườn trái của ngon núi và quan sát con rồng, giương những vuốt sắc nhọn của nó lên không trung đầy thách thức.
Con rồng lúc này vốn đã trông thấy và nhận ra con hổ, tuy nhiên với sự khinh khi, nó vờ như không thấy gì. Về phần con hổ, nó chưa từng gặp rồng và hoàn toàn xa lạ với loài vật này, bước lại gần đứng đầy ngạo nghễ đối diện với con rồng.
Chàng trai kia, vì bị kích thích sự tò mò với những gì sắp diễn ra, liền nấp vào sau một tảng đá và chờ xem.
Con hổ gầm lên đầy thách thức:
' Ta là vua của những loài có lông, tất cả những xứ sở bao gồm cả vùng đối núi phía bắc lẫn đồi núi phía nam đều nằm dưới chướng của ta, ngươi là ai, có dám xưng danh với ta không?Ngươi có hình dáng giống như một con rắn, nhưng lại có vảy giống cá; nên biết rằng nếu muốn, ta có thể xé xác ngươi chỉ với một nhát cắn.'
Con rồng hạ thấp cặp sừng xuống để nghe (3) rồi cười đến nỗi quên cả viên châu nó đang vờn, đáp rằng:
' Ta là chúa tể của các loài có vảy, đứng đầu trong các loài vật linh thiêng, lúc bơi dưới hồ sâu, khi uốn lượn trong không trung. Bởi đâu có sự ngạo nghễ mà ngươi dám diễu trước mặt ta? Bộ lông ô hợp của ngươi không nói nên giá trị gì, nên biết rằng nếu làm ta không ưa, ta có thể xé cái xác hôi thối của ngươi bằng cặp nanh này trong một nhát căn.'
Con hổ nhận ra rằng nó cần phải giải quyết ngay với con rồng, tính dùng sức mạnh để một đấu một, nhưng lại nghĩ có vẻ đối thủ của nó không giàu trí tuệ lắm, cùng với tính huênh hoang tự phụ về trí khôn và hiểu biết, nó thách thức con rồng một cuộc chiến hùng biện.
Con rồng đồng ý đáp trả.
Chúng bắt đầu như sau:
Hổ: 'Chỉ riêng tiếng gầm của loài hổ trong hang động cũng gây ra bão tố, ngươi có đủ bản lĩnh để sánh bằng loài hổ?'
Rồng: ' Hơi thở của rồng bơi trong hồ thôi cũng đánh tan mây tối cùng các các trận bão, sự táo bạo nào mà ngươi dám so sánh với rồng?'
Hổ: Dưới triều nhà Chu (4), một con hổ thôi cũng đủ bình định bờ cõi, công trạng của ta ngang với công trạng của cả chục tướng lĩnh. Khi mà bầu trời hé mở những tia sáng đầu tiên rọi xuống mỗi ngày, loài rồng đã vội vã giấu cái đuôi của mình xuống. Còn thứ gì làm ngươi sợ hãi nữa hay không?
Rồng: Con rồng sống dưới hồ đã mang lại an bình cho triều đại nhà Đường (5). Hai trong mười bận, các vua nhà Đường đã phải nhờ sự trợ giúp của tộc rồng để trị an. Khi trông thấy Xao Duc La (6), loài hổ như bị bịt mõm, chẳng dám động đậy cả đuôi lẫn mồm. Có khi nào ngươi sợ đến nỗi muốn dựa dẫm ta không?
Hổ: Những loài thú hoang của núi đồi đều kinh khiếp ta. Có lần Lưu Luy giết chết một con rồng và dâng vua thịt của nó.(7) Ngươi không hổ thẹn mà xuất hiện trước mắt ta à?
Rồng: Dưới triều nhà Hán, một con rồng đã biến hóa thành đám mây ngũ sắc và đánh đuổi quân thù (8). Phung-phu xuống bước xuống kiệu mà đánh và giết hổ (9). Sao ngươi còn dám cao giọng với ta?
Hổ: Một con hổ ở Hà Nội trấn giữ kinh thành, những kẻ đáng gờm nhất cũng phải sợ sệt nó; nưng loài rồng lại giúp kẻ địch xâm chiếm kinh đô (10). Sao ngươi không là bề tôi trung thành vậy?
Rồng: Con rồng Khổng Minh ở núi Long Trùng (11) đã giúp vua Hán chinh phục vương triều. Nó là phụ tá của Si-Nguyen mà người ta đặt danh là bậc kỳ tài trẻ tuổi (le Jeune Aigle). Loài hổ ở Côn Dương sợ sệt chạy trốn về huyện Hoàng Nông (12). Ngươi nói sao về sự hèn nhát đó đây?
Hổ: Chu Xương (13) xưng vua nhờ có lông mày của hổ. Một hoàng hậu được sinh ra từ nước bọt của rồng làm sụp đổ triều đại nhà Chu (14).Vậy trời dung thứ cho kẻ bệnh hoạn kia chẳng phải lỗi ở rồng sao?
Rồng: Vương Mãng có những phẩm chất của loài rồng, đó là lí do mà ông trở thành vua (15). Tôn Quyền nước Giang Đông không bao giờ xưng vương được bởi tính tàn bạo như loài hổ (16).
Hổ: Trong Diệc kinh có chéo rằng vị thánh hóa thành con hổ. Việc này cũng xảy ra tương tự với vua Thanh và vua Vũ. Có sự tương tự nào khi vua hóa thành rồng chưa (17)?
Rồng: Trong họa đồ Kiến sách Diệc Kinh có chép, vua Nghiêu vua Thuấn hóa thành rồng. Sao hổ ngươi có thể bỏ qua điều đó?
Hổ: Vào chận triến Bôc (Boc?), quân binh giành chiến thắng là nhờ họ khoác lên mình bộ lông hổ (18). Có được chiến thắng là nhờ ơn bộ da và lông của ta.
Rồng: Ai cũng hay rằng, nếu sỹ tử có râu của ta mà học thuộc lòng Chu Biên (19), anh ta hẳn sẽ đỗ đạt khoa cử mà làm trạng nguyên. Công thành danh toại là nhờ râu của ta.
Hổ: Một tiếng gầm nhỏ của hổ làm quân phương Bắc rút chạy, điều đó được kể trong Diệc Kinh, con hổ Thanh giải nguy cho Bach-Mâ(20), sử sách đều chép cả.
Rồng: Rồng đưa vua Tống (21) một lần nữa lên ngôi. Bạch long xuất hiện trong mơ của Nhu-Ngu và ra lệnh cho ông vào vị trí quân binh. Sử sách cũng không quên.
Hổ: Vua Văn Vương nhờ con hổ Sơn Hậu (22) mà thoát được ngục và có nước Lạc. Bạch hổ có thể tự hào vì điều đó.
Rồng: Hoàng Long ở sông đã cứu vua Đinh Tiên Hoàng khỏi bùn đầm lầy (23), công lao nào có thể sánh bằng?
Hổ: Vua Tuyên Vương nhà Chu đại thắng trận Hoai-Ri nhờ 'hổ' tham chiến (24). Như con rồng Thạch giúp Lưu Huyền (25) thắng quân nhà Hán, tội ác đó khủng khiếp không gì gột rửa sạch.
Rồng: Dưới triều vua Thuấn và vua Ngu, vương triều thái bình nhờ vào (?) (ND - bons offices du dragon : không biết dịch là gì). Tội ác của con hổ Sùng Hậu phò tá cho vua Kiệt nhiều đến nỗi tre trong rừng dùng làm bút vẽ chẳng thể nào kể hết.
Hổ: Một con hổ cái trở thành Vương công dưới triều nhà Cốc. Vị vương công này trở thành một trụ cột lớn trong triều, chuyện còn ghi ở Tả Truyện, ngươi không biết sao? (26)
Rồng: Một con rồng đã thỏa thuận vói Bác Cổ mà sinh ra vua Văn Đế nhà Hán (27). Dòng máu rồng còn chảy trong dòng dõi vương gia, chuyện sử có ghi, ngươi quên rồi sao?
Hổ: Tào Thực bảy bước chân viết một bài thơ (28), đó là vì có dòng dõi loài hổ, ngươi không biết sao?
Rồng: Rồng Lưu Hiệp giỏi văn chương nhất thời (29) đã soạn ra Điêu Long, sao ngươi lại bỏ qua cho được?
Hổ:Thời hậu Hán có năm tướng tài giỏi khỏe mạnh như hổ (30) nên vương triều không kẻ nào đánh bại nổi, tám con rồng muôn gây chiến nhưng đại bại. Tám con rồng đó phỏng có giá gì?
Rồng: Ngay dưới triều nhà Đường, con long mã tới đón vua thì bị hai con hổ vội vàng nuốt chửng, Biền Trang giết chúng bằng lưỡi kiếm của mình (31). Hai con hổ đó giá trị gì vậy?
Hổ: Loài rồng trong thời loạn như là sâu đất, như loài thằn lằn đớn hèn, như là Công Thôn khi so mình với Mã Viên(32) , khác gì ếch ngồi đáy giếng làm trò cười.
Rồng: Da hổ thì cũng như da chó da cừu, làm sao ngươi tránh khỏi sự nhạo báng của Doãn Mộc (33) đây ?
Hổ: Ai mà vuốt ngược vảy rồng sẽ chết, sao ngươi tàn độc với loài người quá vậy ?
Rồng: Hạng Bá muốn dâng thịt mà hổ dữ chẳng dám ăn, vậy ngươi hèn nhát thế sao (35) ?
Hổ: Con rồng quấn quanh bằng những chiếc lá làm người thợ câu câu như là một con cá.
Rồng: Bước vào cái lồng để bắt lợn, ngươi nghoe nguẩy cái đuôi trong thế chiến thắng, mà có biết đâu bị ông lão thôn quê đánh bẫy.
Hổ: Trong mỗi cái vảy rồng là mộ con rắn có nanh độc, ngươi là loài độc địa, nhơ nhớp nhất trong các loài bò sát. Ngày ngươi gặp nguy biến, nếu Tôn Châu không cứu lấy, thì thịt ngươi đã bị bán cho hàng thịt rồi.
Rồng: Tiếc thay ngươi có một cái xương ở đáy cổ họng, nếu viên quan Quách Dao không cứu ngươi, đầu ngươi đã nằm trong bồn tiểu của người ta rồi.
Con hổ lấu làm phẫn nộ với lời phản biện này lắm vì nó không đối đáp lại được, nó gầm gừ mà bỏ đi.
Chàng trai nấp sau tảng đá ghi nhớ toàn bộ đoạn đối đáp đó. Để hiểu hơn về những lời hai con vật kiệt chúng kia nói, anh tìm đến nhà một vị học sỹ nổi danh và kể lại tường tận câu chuyện mà anh nghe được rồi hỏi: ' Loài nào tài giỏi hơn, con hổ hay con rồng?'
Vị học sỹ kia, rất ngờ vực, đáp rằng: ' Ta không biết, một con vẹt nói chuyện được như con người, nhưng nó vẫn chỉ là một con vẹt. Cậu muốn biết tại sao con hổ và con rồng đối đáp như người hai học trò thù địch lẫn nhau, người thầy lớn Khổng tử trong sách vở của ngài cũng không nói gì cả, vậy thì đừng hỏi ta.'
Chàng trai trẻ thấy được ấn tượng không hay mà chàng để lại, vội vàng nói: 'Thứ lỗi cho tôi thưa thầy, tôi là một người đàn ông nghèo khổ sống trong rừng rậm, sống giữa những gốc cây, giữa những tảng đá, chỉ biết đến hưu và hoẵng; không biết gì về sự giàu sang lẫn niềm vinh dự; tôi chỉ cảm thấy hạnh phúc trong cô độc; trong khi đó đã từ lâu tôi nghe đến danh tiếng của ngài về sự am hiểu, tôi đến đây mong ngài khai sáng một đôi điều. Tôi từng nghe chim Hạc (35) hiểu được Kinh Thi (36), rằng con gà trống là chuyên gia về khí tượng, con cáo của Đông Quách (37) và lũ khỉ của Bác Dương biết chữ. Những điều đó có tự ngàn xưa, tại sao Khổng tử không nói đến trong Xuân thu (38) ? '
Vị học sỹ lắng nghe và đáp: 'Ta có phần ngờ vực cậu, nhưng sự chân thành trong giọng nói của cậu làm ta thấy trấn và vừa ý. Hãy ngồi xuống đây và lắng nghe.
' Bầu trời và mặt đất tạo ra muông thú bởi hai dòng khí chính, Âm và Dương. Căn gốc của Dương chính là rồng, của Âm là hổ; cả hai đều là hai loài vật kỳ thú. Đó là lí do vì sao mà người ta lại đặt bảng hiệu Long và Dần ở lều thí sinh trong trường thi.
' Mọi nơi trên mặt trặt, luôn luôn có mặt hô và mặt rồng. Một người tài ba là người dung hòa được sức mạnh của hổ và trí thông minh của rồng. Kết hợp cái này với cái kia sẽ hoan thiện cả hai mặt của bản thân. Không thể nói cái nào mạnh hơn cái nào, nếu đem so sánh riêng rẽ, chúng đều có thế mạnh của mình.
'Loài rồng đại diện cho tất cả những gì tinh khiết trên bầu trời và dưới mặt đất; nó có sức mạnh của trí tuệ; nó có thể tùy ý tạo ra ánh sáng hay bóng tối ; hiện ra hay biến mất; đức hạnh và hào hiện, người ta so sánh nó với đấng đế vương. Trong tự nhiên, người ta so sánh nó như những loài cây quý giá nhất, những loài hoa đẹp nhất, những thảo dược hữu dụng nhất, hay như những kim loại đắt giá nhất.
' Loài hổ đại diện cho tất cả những gì không trong lành, trên bầu trời hay dưới mặt đất. Nó tàn bạo, hay trả thù, lấy sự tàn ác thay cho đức hạnh, thói gian xảo thay cho sự ngoan hiền. Người ta so sánh nó với những viên tham quan. Trong thiên nhiên, hổ đại diện cho loài vật tàn ác nhất, những kim loại rẻ tiền, những loài cây độc hại. Khi nó mắc cạn, nó nghoe nguẩy đuôi và giả vờ yếu đuôi; khi nó mắc lưới của thợ săn, nó rơi nước mắt mà tỏ lòng ăn năn.'
Chàng trai nói: ' Tôi thấy rằng những người cầu mong có đức hạnh thì nên lấy loài rồng ra làm gương.'
Vị học sỹ đáp : 'Rồng ở trên loài người, hổ ở dưới loài người. Nếu chỉ muốn học hỏi loài rồng để có đức hạnh, cậu sẽ không thể trở nên hoàn hảo, mà chỉ là một con người đức hạnh và hiền lành; cũng như một người muốn vẽ nên con hạc mà không đủ tài năng nên vẽ hạc thành cò.
' Người muốn vẽ hổ mà vẽ không đúng, cũng chỉ thành một con chó hoang mà thôi.'
Chàng trai kinh ngạc bởi những lời giải thích đầy hiểu biết của vị học sỹ, cúi đầu cám ơn và xin cáo từ.
Trở về nhà, chàng ta soạn ra bài thơ tên là Long Hổ Đấu ký. (38)
------
(1) Huyện Chí Linh là vùng đồi núi có một con sông tương đối lớn chảy qua đổ ra dòng Văn Giang. Núi Phượng Hoàng nằm ở làng Kiêt-dac (?) có đỉnh núi khá cao. Phía cao nhất là một đỉnh kép mà người An nam cho là hai con hạc đang nhảy múa.
Dưới thời nhà Trần, đây là nơi đông dân cư. Vua chúa có xây ở đây 2 lâu đài gọi là Tứ Cực và Lưu Quang. Dưới chân núi Phượng Hoàng có một mỏ đá quý. Dân trong vùng mỗi khi đi ngang qua hẻm núi đều tỏ lòng tôn kính vì sự tích đang được kể ở đây.
(2)Do tôn trọng nguyên bản nên bản gốc được dịch một cách sát nhất. Tuy nhiên, ta cần phải xem xét lại rằng tác giả đã có sự nhầm lẫn ngay khi nói về một người theo đạo lão tên là Nguyen đã sống ẩn tích trong hang động ở núi Phượng Hoàng dưới thời nhà Hồ. Người đàn ông sống ẩn tích ở nơi cô quạnh núi Phượng Hoàng này tên là Huyền-vân và sống vào thời nhà Trần. Anh ta sống và để lại tiếng tốt loan xa đến nỗi để tưởng nhớ, người dân đã cho xay một ngôi chùa đặt tên là Huyền vân động còn tồi tại tới nay. (Hải dương phong vật chí).
(3) Rồng không có tai, mà chúng nghe bằng sừng.
(4) Triều đại nhà Chu (Tchéou) trị vì Trung hoa từ năm 1134 tới năm 256 trước Công nguyên.
(5)Triều đại nhà Đường (Thang) trị vì Trung hoa từ năm 618 tới năm 905 sau Công nguyên.
(6)Người An nam cho rằng Xao Duc La là một vị thần rất quyền năng và là khắc tinh của loài hổ.
(7) Dưới triều vua Khổng Gíap (nhà Hạ, 1879 trước Công nguyên), có một cặp rồng từ trời xuống, một đực một cái. Vua giao cho Lưu Luy, một người am hiểu trong lĩnh vực từng chung sống rất lâu với một con rồng có tên Hoan, chăm sóc chúng. Nhà vua rất hài lòng mà ban thường bổng lộc cho Lưu Luy. Sau một thời gian, con rồng cái có dấu hiệu sắp chết, không muốn thú nhận điều đó trước vua để rồi phải hứng chịu cơn thịnh nộ và sự trừng phạt, Lưu Luy suy tính việc giấu đi cái xác của con rồng. Ông đã cắt khúc nó ra, ngâm giữ với mắm muối và dâng cho vua ăn. Khổng Giáp ăn thứ thịt đó như là cao lương mỹ vị đầy thích thú cho đến khi số thịt đó hết, vua vẫn muốn ăn nữa. Lưu Luy vì sợ vua phát hiện mà bỏ trốn và ẩn náu ở huyện Lỗ.
(8) Vua Thủy Hoàng triều nhà Tần (246 trước Công nguyên) một lần trông thấy phía Đông và phía Nam bầu trời có những đám mây ngũ sắc hình con rồng kéo tới, ông cho rằng đó là điềm báo tai ương từ phía đó mà cho gửi quân binh đi về phía Đông và Nam. Quân binh đã gặp Hán Cao Tổ đang dẫn đầu đoàn quân binh với ý định đánh chiếm nhà Tần. Chiến trận nổ ra, Hán Cao Tổ bại trận chạy trốn vào núi Mang Dương. Việc lui binh cũng được báo trước nhờ các đám mây ngũ sắc ở sườn núi. Vua cho rằng con rồng đã mượn hình mây ngũ sắc để giúp ông giữ vững vương triều.
(9) Triều nhà Tần có một người đàn ông tên là Phung Phu được biết đến nhờ sức majnhhown người. Một ngày khi đang đi dạo quanh vùng, ông bắt gặp một nhóm dân lành đang vây quanh một bụi cây có con hổ nấp bên trong. Không ai dám xông vào đuối nó. Phung Phu trông thấy liền xuống kiệu, xông vào bụi rậm đánh và giết con hổ.
(10)Đây chắc hẳn nói về cuộc chiến giành chủ quyền từ người Hán khỏi An nam và sự lên ngôi của Vua Lê năm 1428. Người Trung quốc chiếm giữ Hà nội, đóng ở thành Đông Quan, Đại La, Thăng Long, những đồn binh quan trọng dưới sự chỉ suy của quân tướng được đặt tên các 'hổ chiến'. Một trong những 'con hổ' này được giao việc trông giữ thành đóng quân ở Tam Sơn, một nấm mồ cao mà ngày nay phần nào vẫn còn tồn tại ở gần cửa Bắc thành Hà Nội.
(11) Khổng Minh là một binh sỹ sinh trưởng ở một ngôi làng nhỏ dưới chân núi nước Nam Dương. Ngọn núi này có dánh dấp một con rồng đang ngủ ở triền giữa được gọi là Ngọa Long. Bởi vậy Khổng Minh còn có biệt hiệu là Ngọa Long. Ông trở thành một vị tướng nổi danh, đặc biệt là với thiến thắng ở Long Trung, với sự trợ giúp của Bang Si Nguyen, hiệu là Con đại bàng nhỏ (Jeune Aigle).
(12) Vua Mãng nhà Tần (năm 9 trước Công nguyên) tuyên chiến với nước Hán, quân binh của ông dưới sự chỉ đạo của Vương Tam, người mà nhiều loài thú hung dữ phải phục tùng, đã tập hợp một đoàn thú tạo thành tiền tuyến đi trước quân đoàn quan sát. Quân đoàn của Vương Tam giao chiến với địch ở Côn Dương nhưng mặc dù có cả sức hổ lẫn voi, công vẫn đại bại.
(13) Chu Xương không phải là vua, mà là thủ lĩnh của một bộ tộc man rợ bị đánh bại bởi Quan Đế vào thời Tam quốc, sau đi theo Quan đế trong các chiến trận. Chu Xương tự tử bên chủ tướng của minh. Ông da đen, có lông mày và bộ râu rậm nên người ta nói ông có tướng như một con hổ.
Tượng Chu Xương luôn có kèm Quan Đế.
(14)Trong sử sách nhà Chu, dưới triều nhà Hạ, một vị thần hạ giới dưới dạng hai con rồng. Hai con rồng này ngự ở kinh thành và muốn ép buộc nhà vua giao chúng nước Bao. Nhà vua rất bối rối đã cho mời các thầy phép tới để tìm hiểu cách xử lý hai con rồng. Các thầy phép dâng biểu muốn săn giết hai con rồng nhưng đồng thời họ cũng đề xuất nên dùng những chiếc bình để hứng lấy bước dãi từ miệng chúng chảy ra. Họ làm thật và đựng đầy những chiếc bình nước dãi rồng, đậy thật kín một cách cẩn thận rồi cất giữ trong cung điện. Trong suốt triều đại nhà Hạ và nhà Thương, không một ai dám đụng vào những chiếc bình đó cho tới khi vua Lê Vương triều nhà Chu tò mò muốn biết bên trong bình có chứa gì mới mở chúng ra. Ngay lập tức, thứ chất lỏng trong bình tuôn ra và chảy lênh láng trên mặt đất cung điện. Từ chất lỏng đó sinh ra một con rắn nước, trốn vào bể cảnh trong vườn.
Khi con rắn trở nên quen thuộc với xung quanh, một ngày, nó dạo quanh khuôn viên rồi gặp một cô gái trẻ, nó cuốn lấy cô và làm cô mang thai. Đến ngày sinh, cô sinh hạ một bé gái nhưng đem bỏ ở một nơi hoang vắng nhằm che đậy sự sai trái.
Đứa trẻ được một tên tù vượt ngục nuôi dưỡng và mang tới nước Bao, nơi nó lớn lên và trở nên xinh đẹp tột bậc. Một thời gian sau vua nước Bảo chịu cơn giận của vua nước Chu, liền dâng cô gái này để cầu hòa. Vua nước Chu bằng lòng và đưa cô vào hậu cung, đặt tên là Bao Tử. Họ có với nhau một hoàng tử tên là Bá Phúc.
Bá Phúc là một người hay ghen ăn tức ở, cậu xúi giục mẹ mình lập mưu lật đổ đương kim hoang hậu và đày bà ta cùng con trai hoàng hậu đi biên ải.
Vua điên cuồng với nàng ái cơ của mình mà thông qua mọi yêu sách ngông cuồng của nàng. Bao Tử thích thú nghe tiếng xé lụa, vua để chiều lòng người đẹp đã xuất ra rất nhiều tấm lụa cho sở thích thất thường đó.
Bao Tử không bao giờ cười dù cho mọi người làm bao nhiêu trò hay ngay cả vua cũng rất nỗ lực, cô vẫn cứ thản nhiên. Ngày nọ vua nghĩ ra một trò. Ông có thỏa thuận với các nước láng giềng đồng minh một hiệp ước rằng trong trường hợp khẩn cấp họ phải cứu giúp tương hộ lẫn nhau. Một ngọn lửa lớn được đốt trên núi như là tín hiệu để thông báo đồng minh.
Vua Lê Vương liền đốt lửa trên núi Lý Sơn và chờ đợi. Tất cả các đồng mình chạy vội lại với áo mũ giáp, họ tìm kiếm quân địch từ mọi phía. Khi mà ái cơ của vua, Bao Tử, trông thấy sự xuất hiện của các binh đoàn đồng minh đó trong đồ chiến đầy lủng củng, đặc biệt là với vẻ mặt tiu nghỉu rõ rệt khi nhận ra họ là nạn nhân của một trò lừa phỉnh, cô bắt đầu cười, lần đầu tiên trong đời mình. Nhà vua hài lòng với việc đó.
Tuy nhiên, trò đùa này đã phải trả một giá đắt. Một thời gian sau đất nước gặp nạn ngoại xâm, nhà vua cho đốt lửa hiệu, nhưng không đồng minh nào đến nữa.
(15) Vương Mãng làm chức tể tướng dưới triều vua Bình Đế, nhà Hán (năm 1 sau Công nguyên). Ông bỏ tù chủ tử của mình khi Binh Đế vừa tuổi 40. Hoàng tử kế vị Như-Tu-An chỉ mới hai tuổi bị Vương Mãng tước quyền không khó khăn. Vương Mãng lên làm vua, mở ra triều đại nhà Tần kéo dài vỏn vẹn chỉ bốn mươi năm.
(16) Tôn Quyền: sống dưới thời vua Hiền Đế ( năm 190 sau công nguyên) có tiếng là hung bạo. Ông tàn ác như vậy là bởi vào lúc mang thai ông, mẹ ông nằm mơ đã nuốt mặt trời.
(17) Nghiêu, Thuấn (Yao, Chuen) là hai vị vua rất nổi tiếng được biết đến như là điển hình của đạo đức và phẩm hạnh. Vua Nghiêu trị vì 91 năm, vua Thuấn trị vì 61 năm từ năm 2357 tới năm 2205 trước công nguyên.
(18) Năm Hi Công thứ 28 triều nhà Chu (năm 3 trước công nguyên), một vị tướng tên là Tư Thán dẫn binh cùng bốn tiểu quốc là Thân, Tề, Tống, Tần gây chiến ở làng Bôc nước Sở. Tư Thán sử dụng mưu kế rằng: cho khoác lên mình binh lính bộ lông hổ mà xông vào trận địa địch làm cho ngựa quân địch tưởng nhầm là hổ mà hoang hốt bỏ chạy.
(19) Truyền thuyết về Chu Biền không phổ biến ở Bắc kỳ, không một viên quan nào được hỏi biết về câu chuyện này.
(20) Xuất thân từ một hoàng tử tên là Thanh, hiệu Hổ sống dưới triều Hán Hiền Đế (năm 190 sau công nguyên) đã giải thoát nước Bach-Mâ khỏi sự cướp phá gây ra bởi các băng đảng có thủ lĩnh là Văn Xử và Nhân Lương.
(21)Trong sách Nam Tống chí có ghi một người tên Khuông-Dân, là con trai viên quan triều đình, vào ngày lễ hội mới dạo chơi tới nhà trò nghe hát, anh quyết định nghỉ lại qua đêm ở đây. Đuổi hết ca trò ra, anh nằm dài ra giường và buông màn nằm ngủ, Khoảng nửa đêm, một cô đào vào phòng nơi chàng trai trẻ đang ngủ, cô vô cùng ngạc nhiên bởi thấy quanh giường có ánh sáng màu vàng rực rỡ tỏa ra. Cô kéo màn lên và trông thấy một con rồng vàng tám móng đang bay lượn phía trên đầu chàng trai.
Thấy điều kì diệu, cô gọi cả nhà trò thức giấc và mọi người đều đồng lòng rằng đây là điềm báo sự lên ngôi của chàng trai trẻ. Qủa thực, Triệu-Khuông-Dân lên ngôi mở đầu cho nhà Tống (năm 960 sau công nguyên)
(22) Vua Kiệt (Hạ Kiệt) tên thật là Lý Qúy (năm 818 trước công nguyên). Con hổ Sơn Hậu là một quan chức nhà Thương. Câu truyện được nói đến ở đây và một bản khác được kể trong biên niên sử; công quốc Lạc Tây được dâng không phải cho Sơn Hậu mà là cho vua Tru.
(23) Đinh Bộ Lĩnh là một thủ lĩnh trẻ tuổi lãnh đạo quần chúng đứng lên phản kháng lại chế độ phong kiến phương Bắc đô hộ An nam và hệ thống quan lại thân giặc ngoại bang vào cuối thế kỷ thứ IX. Trong một lần tấn công bất thành một người bác của mình, ông trốn chạy, trong lúc chạy qua một cây cầu tre, ông bị rơi xuống đầm lầy và không thể nào ngoi lên được. Bác của ông có mặt ngay tức thì và chờ đợi để giết ông nhưng ngay lập tức sợ hãi khi trông thấy một con rồng vàng ngoi lên từ mặt đầm mang theo chàng trai trẻ.
Đinh đuổi giặc ngoại bang, cơ cấu lại đất nước và đóng đô ở Hoa Lư. Lăng mộ ông ngày nay vẫn còn tồn tại ở gần phế tích cố đô Hoa Lưa thuộc huyện Trường Yên, tỉnh Ninh Bình ngày nay.
(24)Năm đầu tiên đương triều của Tuyên Vương nhà Chu ( năm 827 trước công nguyên), Thiều Công, hiệu là Hổ (le Tigre) được phong làm tướng lãnh binh đi đánh trận ở Hoài-Ri, ông đã thắng trận mà chiếm lấy nhiều công quốc lân bang.
(25)Lưu Huyền là tên tục của Hoài Dương, vị vua bất tài trị vì vỏn vẹn 2 năm ( năm 23 trước công nguyên)
(26) Một người đàn ông trẻ tuổi tên Đỗ Bá Thi, con trai của viên quan nhà Sở tên Nhược-Ngao với một người đàn bà nước Vân, tư tình với cô gái trẻ đất Tư Vân rồi có với nhau một người con. Bà mẹ cô gái này không muốn nuôi cháu, bà chối bỏ vứt nó bên bờ hồ Mông. Một con hổ cái đi ngang qua nghe thấy tiếng trẻ con, liền tiến lại trông thấy hiểu ngay là đứa trẻ đang đói và đòi bú. Đỗ Bá Thi trong cuộc săn bắn ngang qua, đã trông thấy toàn bộ sự việc. Anh ta mang đứa bé về nhà mình. Dân chúng đặt biệt danh cho đứa bé là Nhu Coc, còn con hổ là Hô Do (tên không biết dịch ra tiếng Việt, mình để nguyên gốc - ND)
(27) Hoàng đế Ouen-Ti (Văn Đế) được biết là vị hoàng đế tài cao trị vì trong 170 năm trước công nguyên. Mẹ ông tên là Bác, nằm mơ thấy một con rồng màu xanh xuống xà vào mình bà, rồi bà mang thai.
(28) Trong cuốn sách đầu của bộ sách Tai -Tư (?) có ghi vua Tào Phi rất ghen ghét với tài năng văn phú của anh trai mình là Tào Thức, lệnh cho bỏ ngục anh trai cho tới chết nếu trong thời gian bước bảy bước chân, ông không sáng tác ra một bài thơ với chủ đề định sẵn. Tào Thức dễ dàng hoàn thành bài toán đố để bảo toàn mạng sống của mình.
(29) Lưu Hiệp, hiệu 'Hổ', tác giả của bài thơ Văn tâm điêu long.
(30)Ám chỉ năm vị tướng của Lưu Bị.
(31) Giai thoại được ám chỉ ở đây được kể dị bản trong sách Quang sử loại biên dựa trên sách Chiến quốc.
(32) Mã Viên, một vị tướng lớn người đã đánh chiếm nước Nam, bảo vệ hoàng hậu Trưng và em gái của bà, hai nữ anh hùng nước Nam, một ngày tới thăm viên quan tri phủ một tỉnh biên giới nhỏ tên Công Thôn Thuât. Viên quan này tính tự phụ và bất cần, vờ như một vị vua lớn nói chuyện như vai vế ngang bằng với vua Trung hoa.
Mã Viên sau đó thuật lại với hoàng đế , so sánh mỉa mai Công Thôn Thuật như là con ếch ở dưới đáy giếng, chỉ nhìn thấy một phần nhỏ của bầu trời đã cho rằng là thấy tất cả.
(33)Đoan Moc là một nhà hiền tài nước Tây Hạ thuộc Ngụy quốc. Ông sống vào thời Uy Liệt nhà Chu (năm 125 trước công nguyên).
(34) Trong Kinh Thi mà câu chuyện nhắc đến không hề có câu hỏi này mà chỉ có chuyện về một hoạn quan phục vụ cho U Vương thời nhà Chu ( năm 781 trước công nguyên ) tên là Hạng Bá bị vu khống nên vua ban chết. Sau này, ông được minh oan, người ta lên án tội ác của kẻ vu khống khủng khiếp đến nỗi đáng ném hắn ta cho thú dữ làm mồi, đến hổ cũng miễn cưỡng mà nuốt thịt hắn.
(35) Con sếu
(36) Một trong ngũ kinh
(37) Đông Qúach một nhạc công nổi tiếng dưới thời vua Uy Liệt nhà Chu (năm 125 trước công nguyên)
(38) Bài thơ nằm trong cuốn Truyền kỳ tân phả.
Nguồn: Les symboles, les emblèmes et les accessoires du
cultes chez les annamites, 1891, trang 58./